Huyền Quang thiền sư 玄光禪師 (hay Huyền Quang tôn giả, 1254-1334) tên thật là Lý Ðạo Tái 李道載 (có sách chép Trần Ðạo Tái, Lý Tái Ðạo). Ông người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, sinh năm Giáp Dần (1254), mất ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334).
Theo "Tổ gia thực lục" trong "Tam tổ thực lục" thì từ nhỏ ông đã có khiếu văn chương, năm hai mươi tuổi đỗ khoa thi hương và năm sau lại đỗ đầu khoa thi hội. Được bổ dụng vào Viện nội hàn, từng tiếp sứ Bắc, rất nổi tiếng về thơ văn. Nhưng không bao lâu ông một mực xin từ chức đi tu. Được người đứng đầu dòng Thiền Trúc lâm lúc bấy giờ là Trần Nhân Tông rất quý mến, giao cho Pháp Loa hướng dẫn. Về sau ông trở thành vị tổ thứ ba của dòng thiền này.
Huyền Quang là một nhà sư đồng thời là một thi sĩ có tiếng đời Trần. Thơ ông rất đậm chất trữ tình. Các nhà phê bình đời trước như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đều khen thơ ông "ý tinh tế, cao siêu", "lời bay bướm, phóng khoáng". Có lẽ con người thi nhân trong ông rõ nét hơn con người tôn giáo. Xung quanh thân thế ông có nhiều giai thoại khá hấp dẫn, đã trở thành những câu chuyện dân gian được lưu truyền rộng rãi, và cũng đã từng được nhà văn đương thời ghi lại dưới hình thức một truyện truyền kỳ, lý thú, đi vào kho sách vở nhà Phật từ nhiều thế kỷ nay.
Tác phẩm hiện còn 24 bài thơ, trong số đó có bài "Xuân nhật tức sự" gần đây được xác minh là thơ thiền đời Tống, một bài phú Nôm, sách vở cũ cho biết ông còn có các tác phẩm "Chư phẩm kính", "Công văn tập", thư từ tiếp sứ và tập thơ "Ngọc tiên tập" nhưng nay đều đã thất lạc.
Một số sách còn chép ông chính là tác giả câu thơ nôm cảm khái về nhân tình thái thế khá chua chát sau đây: Khó khăn thì chẳng ai nhìn, Đến khi đỗ trạng, tám nghìn nhân duyên.
Ai phù lỗ Khóa huyết thư thành dục ký âm, Cô phi hàn nhạn tái vân thâm. Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt. Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.
Dịch nghĩa
Thương tên giặt bị bắt Chích máu viết thư muốn gửi lời, Cánh nhạn lạnh lùng bay xuyên vào đám mây ngoài quan ải. Bao nhiêu nhà buồn ngắm bóng trăng đêm nay? Đôi nơi xa cách nhưng tấm lòng nhớ thương vẫn chỉ là một.
Dịch thơ Chích máu thành thơ mượn gửi lời Lẻ loi nhạn lạnh, ải mù khơi Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ ? Xa cách, nhưng lòng chỉ một thôi. (Huệ Chi)
******** Chích máu thành thư muốn gửi đưa, Rẽ mây biên tái, nhạn bơ vơ. Mấy nhà buồn ngắm trăng đêm vắng, Xa cách lòng chung một đợi chờ. (Hoàng Trung Thông)
******** Đề thư bằng máu muốn đưa tin, Ngoài ải mây đùn chiếc nhạn im. Buồn ngó trăng nay nào những kẻ? Mở màng hai chốn một lòng in (Phạm Trọng Điềm)
Địa lô tức sự Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương, Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương. Thủ bả xuy thương hoà thái thác, Ðồ giao nhân tiếu lão tăng mang.
Dịch nghĩa
Trước bếp lò tức cảnh Củi đã tàn, cũng chẳng thấp hương, Miệng trả lời chú bé hỏi về những chương sách ngắn. Tay cầm ống thổi, tay nhặt mo nang, Luống để người ta cười vị sư già này bận bịu.
Đề Đạm Thủy tự Đạm Thuỷ đình biên dã thảo đa, Không sơn vũ tễ tịch dương tà. Nhân qua liễn lộ đầu thiền thất, Ủng phạm xao chung giản lạc hoa.
Dịch nghĩa
Đề chùa Đạm Thủy Bên đình Đạm Thuỷ nhiều cỏ nội, Núi quang, mưa tạnh, bóng chiều chênh chếch. Nhân qua con đường vua đi mà vào am thiền, Giúp nhà chùa thỉnh chuông và nhặt hoa rơi.
Dịch thơ Bên đình Đạm Thuỷ cỏ đua tươi, Mưa tạnh non quang, bóng ngả dài. Tiện lối xe vua vào vãng Phật, Thỉnh chuông, giúp sãi nhặt hoa rơi. (Huệ Chi)
******** Bên đình Đạm-thuỷ cỏ đầy đồi, Mưa tạnh, non quang, bóng xế rồi. Nhân tiện qua đường vào vãng cảnh, Gõ chuông, cắp sách, nhặt hoa rơi. (Phạm Trọng Điềm)
Đề Động Hiên đàn việt giả sơn Hoa mộc di duyên chủng tác sơn, Lung yên trạo nguyệt, lạc hoa hàn. Tùng tư niệm lự đô vô tục, Doanh đắc thanh phong nhất chẩm an.
Dịch nghĩa
Đề núi non bộ của thí chủ ở Động Hiên Trồng hoa và cây quấn quýt làm thành núi non bộ, Khói toả trăng lồng, hoa rơi lạnh lẽo. Từ nay những mối suy nghĩ không còn vương tục luỵ, Giành được giấc ngủ êm đềm trước luồng gió trong mát.
Dịch thơ Quanh quất cây leo, núi chất chồng, Hoa rơi lạnh giữa khói trăng lồng. Từ nay niệm tục thôi vương vấn, Chiếc gối an nhàn trước gió trong. (Huệ Chi)
******** Trồng cây uốn lá giả làm non, Lồng khói, trăng, hoa, thú cỏn con. Tư tưởng từ nay không tục luỵ, Được thêm gió mát ngủ thêm ngon. (Phạm Trọng Điềm)
Cúc hoa kỳ nhất Tùng thanh Tưởng Hủ* tiên sinh kính, Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ* gia. Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp, Cố viên tuỳ xứ thổ hoàng hoa.
Dịch nghĩa
Cúc hoa kỳ 1 Tiếng thông reo đầu ngõ ông Tưởng Hủ Cảnh hoa mai ở nhà xử sĩ Tây Hồ. Không cùng nghĩa khí, khó lòng hoà hợp tạm bợ được. Vườn cũ nơi nơi đã nở hoa vàng.
Dịch thơ Ngõ nhà Tưởng Hủ thông reo Tây hồ mai thắm dập dìu hương đưa. Mỗi người một thú riêng ưa, Tình ta vẫn cúc vườn xưa nở vàng. (Nguyễn Tấn Hưng)
******** Đường nhà Tưởng Hủ thông reo gió, Lều ẩn Tây Hồ mai gội sương. Nghĩa khí khác nhau đành khác cảnh, Vườn xưa sau trước rộ hoa vàng. (Lê Hữu Nhiệm)
* Tưởng Hủ:Nguyễn Khanh, người đất Đỗ Lăng đời Hán, làm Thứ sử Duệ Châu thời Ai Đế. Ông thích trúc và trồng trúc trong vườn.
Cúc hoa kỳ nhị Đại giang vô mộng hoán khô tràng, Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang. Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn, Thi biều thực vị cúc hoa mang.
Dịch nghĩa
Cúc hoa kỳ 2 Không mơ lấy nước sông lớn rửa tấc lòng khô héo, Hoa mai từng được trăm bài thơ vịnh kia phải nhường vẻ đẹp Già rồi lại buồn vì thu, chưa làm thơ được, Nhưng túi thơ bầu rượu thật vì hoa cúc mà bận rộn.
Dịch thơ Ngàn sông không đủ thấm lòng già, Bách vịnh mai hoa vẫn kém xa. Đầu bạc ngâm hoài vần chưa ổn, Thấy hoa cúc nở rộn lòng ta. (Nguyễn Lang)
******** Sông lớn nào mong rửa ruột rầu, Xinh tươi, mai cũng phải nhường câu. Sầu thu, tuổi tác ngâm chưa được, Thơ rượu, vì hoa bận đến nhau. (Huệ Chi)
******** Ruột héo mong gì nước rửa trôi, Mai hoa bách vịnh kém xinh tươi. Tuổi già ngâm hão văn chưa ổn, Vì cúc, vườn thơ luống rối bời. (Phạm Trọng Điềm)
Cúc hoa kỳ tam Vong thân, vong thế, dĩ đô vong, Toạ cửu tiêu nhiên nhất tháp lương. Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật, Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.
Dịch nghĩa
Cúc hoa kỳ 3 Quên mình, quên đời, đã quên tất cả, Ngồi lâu trong hiu hắt, mát lạnh cả giường. Cuối năm ở trong núi không có lịch, Thấy cúc nở biết rằng đã tiết trùng dương.
Dịch thơ Sự đời quên cả chẳng lôi thôi Chiếc chõng quanh năm bó gối ngồi Ngày tháng chẳng còn sờ đến lịch Thấy hoa cúc nở đoán thu rồi. (Nguyễn Trọng Thuật)
******** Quên mình, quên hết cuộc tang thương, Ngồi lặng đìu hiu, mát cả giường. Năm cuối trong rừng không có lịch, Thấy hoa cúc nở biết trùng dương. (Phan Võ)
******** Quên mọi chuyện đời quên cả thân Giường tre mát mẻ lặng ngồi thần Cuối năm, trong núi, quên ngày tháng Cúc nở trùng dương tết đến gần. (Ngô Văn Phú)
******** Dầu thân, dầu thế đã không màng, Ngồi mãi, buồn tênh một góc giường. Trong núi năm tàn không có lịch, Thấy hoa cúc nở biết trùng dương. (Phạm Trọng Điềm)
******** Quên cả thân này lẫn thế duyên, Lặng lẽ ngồi lâu mát lạnh giường. Cuối năm trong núi không có lịch, Cúc nở hay ra tiết trùng dương. (Thien Thanh)
Cúc hoa kỳ tứ Niên niên hoà lộ hướng thu khai, Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài. Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ, Mãn đầu tuỳ đáo sáp quy lai.
Dịch nghĩa
Cúc hoa kỳ 4 Hàng năm hoa nở vào thu cùng với sương móc. Trăng thanh trời quang đãng, thỏa thích tấc lòng Ðáng cười ai không rõ sự huyền diệu của hoa, Bất cứ tới đâu (thấy hoa) cắm đầy đầu mang về.
Dịch thơ Năm năm nở đúng tiết thu qua Gió dịu trăng thanh ý mặn mà Cười kẻ không hay hoa huyền diệu Khi về mái tóc giắt đầy hoa. (Nguyễn Lang)
******** Sương móc hơi dương cúc nở hoa, Trăng trong gió mát thoả lòng ta. Cười ai không rõ hoa mầu nhiệm, Hái giắt đầy đầu trở lại nhà. (Phạm Trọng Điềm)
******** Cứ thu là cúc vàng bông, Lòng ta gió mát trăng trong chan hòa. Nực cười chẳng hiểu cho hoa Lại còn giắt tóc hi ha nẻo về... (Khuyết Danh)
Cúc hoa kỳ ngũ Hoa tại trung đình nhân tại lâu, Phần hương độc toạ tự vong ưu. Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh, Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
Dịch nghĩa
Cúc hoa kỳ 5 Hoa ở dưới sân, người trên lầu, Một mình thắp hương ngồi tự nhiên quên hết phiền muộn. Người với hoa hồn nhiên không tranh cạnh, Trong các loài hoa thì cúc trội hơn một bậc.
Dịch thơ
Người ở trên lầu hoa dưới sân Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông Hồn nhiên người với hoa vô biệt Một đóa hoa vàng chợt nở tung. (Nguyễn Lang)
******** Hoa ở giữa sân người trên lầu Đốt hương ngồi lặng dứt lo âu Chủ cùng muôn vật không chi khác Hoa bỗng nở tung một đoá hường. (Vũ Thế Ngọc)
******** Hoa ở trước sân người trên lầu, Đốt hương ngồi lặng, bỗng quên sầu. Hồn nhiên, người vật không tranh cạnh, So với muôn hoa, cúc đứng đầu. (Huệ Chi)
******** Hoa ở giữa sân chủ ở lầu, Thắp hương ngồi ngắm hết âu sầu. Chủ nhân cùng vật không tranh cạnh, So sánh trăm hoa cúc đứng đầu. (Phạm Trọng Điềm)
Cúc hoa kỳ lục Xuân lai hoàng bạch các phương phi, Ái diễm liên hương diệc tự thì. Biến giới phồn hoa toàn truỵ địa, Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly.
Dịch nghĩa
Cúc hoa kỳ 6 Xuân đến hoa vàng hoa trắng đều ngát thơm, Đúng thì, vẻ đẹp đáng yêu, hương thơm đáng chuộng đều giống nhau. Nhưng khi các loài hoa tươi tốt khắp nơi đều đã tàn rụng, Thì nhan sắc phai nhạt sau cùng là bông hoa ở giậu phía đông.
Dịch thơ Hoa trắng, hoa vàng, cúc đón xuân, Thương hương đắm sắc dạ bàn hoàn Muôn hoa rực rỡ đều tàn cả Riêng cúc chưa phai với sắc hương. (Ngô Văn Phú)
******** Xuân đến trăm hoa đua sắc thắm, Một thời hương sắc kém chi nhau. Vườn thu tàn tạ ngàn hoa rụng, Riêng cúc đông ly vẫn được màu. (Băng Thanh)
******** Ngàn hoa xuân, bạch chen hường Ðương mùa, khoe thắm sác hương dập dồn. Khi phồn hoa thảy héo hon Giậu đông, rốt lại chỉ còn cúc thu. (Khuyết danh)
******** Phưng phức ngày xuân đoá trắng vàng, Hợp thời yêu quý sắc cùng nhang. Phồn hoa các khóm rơi đầy đất, Bộ mặt giàn đông vẫn nở nang. (Phạm Trọng Điềm)
Chu trung Nhất diệp biển chu hồ hải khách, Xanh xuất vi hành phong thích thích. Vi mang tứ cố vãn triều sinh, Giang thủy liên thiên nhất âu bạch.
Dịch nghĩa
Trong thuyền Một lá thuyền con, một khách hải hồ, Chèo khỏi rặng lau, tiếng gió xào xạc. Bốn bề mịt mù, con nước buổi chiều đương lên, Một chim âu trắng giữa khoảng nước trời liền nhau.
Dịch thơ Dấu khách giang hồ thuyền một lá, Hàng lau lách gió chèo thong thả. Bốn bề trông quạnh ngọn triền lên, Nước biếc liền trời âu trắng xoá. (Đinh Văn Chấp)
******** Sông hồ nổi chiếc thuyền nan Chèo xao xác gió qua hàng cỏ lau Ngọn triều bốn phía lên mau Thênh thang trời nước cánh âu an nhàn. (Nguyễn Tấn Hưng)
******** Giang hồ tếch một lá thuyền con, Chèo khỏi hàng lau, gió dập dồn. Trắng xoá chim âu, trời lẫn nước, Mịt mù bốn phía ngọn triều tuôn! (Huệ Chi)
******** Một lá thuyền con thú hải hồ, Chèo ra lau lách gió vu vu. Thuỷ triều buổi tối trông mờ mịt, Trời nước mênh mông một chiếc cò. (Phạm Trọng Điềm)
Diên Hựu tự Thượng phương du dạ nhất chung lan, Nguyệt sắc như ba phong thụ đan. Si vẫn* đảo miên phương kính lãng, Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn. Vạn duyên bất nhiễu thành già tục, Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan. Tham thấu thị phi bình đẳng tướng, Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.
Dịch nghĩa
Chùa Diên Hựu Đêm thu, trên chùa một tiếng chuông đã tàn, Ánh trăng như sóng, cây phong lá đỏ. Bóng "xi vẫn" nằm ngủ ngược dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá, Hai ngọn tháp đứng song song như ngón tay ngọc rét buốt. Muôn vàn nhân duyên không vương vấn là bức thành che niềm tục, Không lo lắng chút gì nên tầm mắt mở rộng. Hiểu thấu ý nghĩa của thuyết phải trái đều như nhau, Thì xem cung ma có khác gì nước Phật!
Dịch thơ Đêm thu chùa thoảng tiếng chuông tàn, Phong đỏ, trăng ngời, sóng nguyệt lan. In ngược hình chim, gương nước lạnh, Sẫm đôi bóng tháp, ngón tiêu hàn. Muôn duyên chẳng vướng: xa trần tục, Một mảy nào lo: rộng nhãn quan. Thấu hiểu thị phi đều thế cả, Dầu ma dầu Phật, chốn nào hơn. (Huệ Chi)
*Si vẫn: Còn gọi là "si vĩ", là hình những con chim, cú, hoặc rồng được khắc hoặc đắp nổi trên nói các đình, chùa. Trên nóc cùa Một Cột ngày nay có hình rồng
Mai hoa Dục hướng thương thương vấn sở tòng, Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung. Chiết lai bất vị già thanh nhãn, Nguyện tá xuân tư uỷ bệnh ông.
Dịch nghĩa
Hoa mai Muốn ngẩng nhìn trời xanh hỏi hoa mai từ đâu tới, Lẫm liệt đứng sừng sững một mình trong núi tuyết. Bẻ về không phải để che mắt những người tinh đời, Chỉ muốn mượn tứ xuân an ủi ông già ốm yếu.
Dịch thơ
Toan tới trời xanh hỏi đến đâu? Ngọn non trơ trọi tuyết phau phau. Bẻ về không phải vì che mắt, Muốn mượn xuân này đỡ lão đau. (Trần Tuấn Khải)
******** Muốn hỏi trời xanh: hoa tự đâu, Một mình gội tuyết chốn non sâu. Bẻ về, đâu muốn lừa tri kỷ, Chỉ mượn tinh hoa giải bệnh sầu. (Băng Thanh)
******** Muốn hỏi trời xanh vỡ lý ra, Trong non băng tuyết nở tung hoa. Hái về không phải nhìn âu yếm, Muốn mượn màu xuân đỡ bệnh già. (Phạm Trọng Điềm)
Giấc ngủ trưa Tạnh mưa khe trong núi nước trong Rừng phong mát mẽ sau giấc ngủ say (mộng). Nhìn lại cõi trần này. Khi bừng mắt tỉnh dậy thấy niềm say man mác.
Dịch thơ Mưa tạnh, núi khe sạch, Rừng phong một giấc mơ. Ngoảnh nhìn đời bụi bặm, Mở mắt dường say sưa. (Đỗ Văn Hỷ)
******** Sau mưa núi lặng khe trong, Êm đềm một giấc rừng phong lặng tờ. Ngoảnh nhìn thế giới bụi mờ, Mở to đôi mắt mà ngờ như say. (Băng Thanh)
******** Mưa tạnh khe núi tĩnh Ngủ mát giữa rừng phong Nhìn lại cõi nhân thế Mắt mở vẫn say nồng (Thiền sư Thích Nhất Hạnh)
Nhân sự đề Cứu Lan tự Đức bạc thường tàm kế tổ đăng, Không giao Hàn, Thập* khởi oan tăng. Tranh như trục bạn quy sơn khứ, Điệp chướng trùng san vạn vạn tằng.
Dịch nghĩa
Nhân có việc đề ờ chùa Cứu Lan Thường thẹn mình đức mỏng mà được nối ngọn đèn Tổ, Luống để cho Hàn Sơn và Thập Đắc phải sinh niềm oán giận. Chi bằng theo bạn về núi, Sống giữa muôn vạn tầng núi non trùng điệp.
Dịch thơ Đức mỏng, thẹn thùng đèn tổ nối, Luống cho Hàn, Thập nổi hờn căm. Chi bằng theo bạn về non quách, Núi dựng non che vạn vạn tầng. (Hoàng Trung Thông)
******** Thẹn mình đức mỏng, nối đen, Luống cho Hàn, Thập nhiều phen ngậm hờn. Sao bằng theo bạn "quy sơn", Khuất che lớp lớp núi non vạn tầng. (Huệ Chi)
******** Hổ mình đức mỏng giữ đèn nhang, Luống để Thập, Hàn mắc tiếng oan. Theo bạn chi bằng về núi quách, Non cao trùng điệp kể muôn vàn. (Phạm Trọng Điềm)
*Hàn, Thập:Hàn tức Hàn Sơn, Thập tức Thập Đắc, hai vị sư ở thời Trinh Quán nhà Đường. Theo "Truyện cao tăng" thì sư Phong Can ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai đi vân du gặp Lư Khâu Dận đi nhậm chức ở Thai Châu, hỏi ở Thai Châu có vị sư nào đạo đức cao siêu không? Sư Phong Can trả lời: "có Hàn Sơn Văn Thù và Thập Đắc Phổ Hiền, hình dáng như người nghèo lại như có chứng phong cuồng, hai vị này ở chùa giữ việc bếp nước". Khi Lưu Khâu Dận đến châu lỵ, vào chùa thấy hai vị sư này, liền sụp xuống lạy. Hai vị nói: "Phong Can rõ thật lắm mồm", rồi cùng nhau chạy trốn, Lư Khâu Dận tìm kiếm di vật, thấy được lời kệ của Thập Đắc và hai tập thơ của Hàn Sơn tử.
Phiếm chu Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang, Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang. Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại, Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
Dịch nghĩa
Chèo thuyền Chiếc thuyền con lướt gió lênh đênh trên dòng sông bát ngát, Non xanh, nước biếc, lại thêm ánh sáng mùa thu. Vài tiếng sáo làng chài ngoài khóm hoa lau, Trăng rơi đáy sóng, mặt sông đầy sương.
Dịch thơ Cưỡi thuyền lướt gió sóng mênh mông, Non nước trời thu một sắc trong. Tiếng sáo thuyền câu ngoài bến sậy, Trăng rơi đáy nước móc đầy sông... (Đinh Văn Chấp)
******** Lướt gió thuyền con ruổi tít mù, Non xanh nước biếc, ánh trời thu. Khuất lau sáo thổi vài ba tiếng, Sương phủ, trăng chìm dưới sóng sâu. (Huệ Chi)
Quá Vạn Kiếp Lạng Châu nhân vật thuỷ lưu đông, Bách tuế quang âm nhiển chỉ trung. Hồi thủ cố sơn ngưng vọng xứ, Sổ hàng qui nhạn thiếp tình không.
Dịch nghĩa
Qua Vạn Kiếp Nhân vật đất Lạng Châu như nước chảy về đông, Trăm năm bóng quang âm chỉ trong nháy mắt. Ngoảnh lại non xưa, nhìn đăm đắm, Vài hàng chim nhạn về Bắc in bóng giữa trời quang
Dịch thơ Về đông, nước chảy, người châu Lạng, Ngày tháng, trăm năm một thoáng nhanh. Núi cũ, ngoảnh đầu đăm đắm ngóng, Nhạn về in bóng giữa tầng xanh. (Hoàng Trung Thông, Băng Thanh)
******** Nhân vật Lạng-sơn nước chảy xuôi, Trăm năm bấm đốt chốc mồng thôi. Quay đầu nhìn kỹ nơi non cũ, Đàn nhạn bay về rợp giữa trời. (Phạm Trọng Điềm)
Sơn vũ Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha, Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la. Dĩ hỹ thành thiền tâm nhất phiến, Cung thanh tức tức vị thuỳ đa.
Dịch nghĩa
Nhà trong núi Đêm khuya gió thu sịch động bức rèm, Nhà núi đìu hiệu gối vào lùm dây leo xanh biếc. Thôi rồi, lòng ta đã hoàn toàn yên tĩnh, Tiếng dế vì ai vẫn rầu rĩ mãi.
Dịch thơ Gió thu khuya khoắt thoảng hiên ngoài, Quạch quê nhà non lấp ruổi gai. Thôi đã theo thiền lòng lặng tắt, Nỉ non tiếng dễ vẫn vì ai ? (Huệ Chi)
******** Gió thu ban tối thổi hiên tây Nhà núi đìu hiu tựa đám cây Tấc dạ tu hành từ những thuở Dế kêu rầu rĩ bởi ai đây? (Phan Võ)
******** Gió thu đêm vắng động rèm ngoài, Nhà nát trên non cỏ mọc hoài. Một tấm lòng thiền tu luyện sẵn, Tiếng sâu eo óc luống vì ai? (Phạm Trọng Điềm)
Tặng sĩ đồ tử đệ Phú quí phù vân trì vị đáo, Quang âm lưu thuỷ cấp tương thôi. Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ, Nhất tháp tùng phong, trà nhất bôi.
Dịch nghĩa
Tặng những con em trên đường sĩ hoạn Giàu sang như mây nổi, chậm chạp chưa đến, Quang âm như nước chảy, hối hả giục nhau qua. Sao bằng về ẩn nơi rừng suối, Một sập gió thông, một chén trà.
Dịch thơ Giàu sang đến chậm như mây nổi, Năm tháng trôi vèo tựa nước sa. Rừng suối chi bằng về ẩn quách, Gió thông một sập, chén đầy trà (Nguyễn Huệ Chi)
******** Mây nổi giàu sang chầy chửa đến, Nước trôi ngày tháng giục mau già. Chi bằng ở ẩn nơi rừng suối, Nằm khểnh gió thông, uống chén trà. (Phạm Trọng Điềm)
Thạch thất Bán gian thạch thất hoà vân trụ, Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn. Tăng tại thiền sàng kinh tại án, Lô tàn cốt đột nhật tam can.
Dịch nghĩa
Nhà đá Nửa gian nhà đá, ở lẫn cùng mây, Một tấm áo lông, trải hết mùa đông rét buốt. Sư ở trên giường thiền, kinh ở trên án, Lò tàn, củi lụi, mặt trời lên đã ba cây sào.
Dịch thơ Nửa gian nhà đá, bạn cùng mây, Tấm áo lông thô, lạnh tháng ngày. Sư khểnh giường thiền, kinh trước án. Lò tàn, than lụi, sáng nào hay. (Huệ Chi)
******** Nửa gian nhà đá mây bao bọc, Một tấm áo bông buổi lạnh lùng. Sư ngủ giường thiền kinh để án, Mặt trời ba trượng củi lò không. (Phạm Trọng Điềm)
Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề Hoang thảo tàn yên dã tứ đa, Nam lâu Bắc quán tịch dương tà. Xuân vô chủ tích thi vô liệu, Sầu tuyệt đông phong kỷ thụ hoa.
Dịch nghĩa
Hoạ bài thơ đề trên vách chùa Bảo Khánh Cỏ hoang khói nhạt, tứ quê chan chứa, Lầu Nam quán Bắc dưới bóng chiều tà. Tiếc thay cảnh xuân không có chủ, thơ không có nguồn thơ, Mấy cây hoa buồn bã trước gió xuân.
Dịch thơ Chan chứa màu quê khói nhạt đồng Lầu Nam quán Bắc ánh dương lồng Tiếc xuân không chủ, thơ không hứng Hoa chỉ thêm sầu nhớ gió đông. (Nguyễn Tấn Hưng)
******** Khói nhạt đồng hoang quê lắm vẻ, Lầu Nam quán Bắc, xế vừng hồng. Thơ không thi liệu, xuân không chủ, Mấy cội hoa sầu nhớ gió Đông. (Nguyễn Đổng Chi)
******** Cỏ dại mây mù tứ nảy ra, Lầu Nam quán Bắc bóng chiều tà. Xuân không chủ tiếc thơ không giỏi, Buồn rứt gió đông mấy khóm hoa. (Phạm Trọng Điềm)
Trú miên Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ, Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngô lư. Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch, Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư.
Dịch nghĩa
Ngủ ngày Ruộng vườn của cha ông, mặc sức tự cày cấy, Ngàn cây xanh quanh co, vấn vít quanh nhà ta. Trên cây quế ngoài cửa sổ, ngàn con chim cưu vắng tiếng, Một chiếc gối trong gió mát, giấc mộng ban ngày chưa tàn.
Dịch thơ Vườn tược cha ông mặc sức cày, Quanh nhà xanh nượp mấy ngàn cây. Ngoài song, cành quê chim cưu vắng, Gió mát, triền miên giấc ngủ ngày. (Kiều Thu Hoạch)
******** Cấy cày vườn ruộng của ông cha, Ngàn khóm cây xanh phủ khắp nhà. Cửa sổ mộc tê chim vắng tiếng, Ngủ ngày một giấc gió bay qua. (Phạm Trọng Điềm)
Xuân nhật tức sự Nhị bát giai nhân thích tú trì, Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly. Khả liên vô hạn thương xuân ý, Tận tại đình châm bất ngữ thì.
Dịch nghĩa
Tức cảnh ngày xuân Người đẹp tuổi vừa đôi tám, ngồi thêu gấm chậm rãi, Dưới lùm hoa tử kính đang nở, líu lo tiếng chim oanh vàng. Thương biết bao nhiêu cái ý thương xuân của nàng, Cùng dồn lại ở một giây phút, đứng kim và im phắc.
Dịch thơ Lỏng tay thêu gấm, gái yêu kiều, Hoa rợp, oanh vàng lảnh lót kêu. Bao nỗi thương xuân, thương biết mấy, Là khi không nói, chợt dừng thêu. (Huệ Chi).
******** Người xinh thêu thật nhẹ nhàng Líu lo oanh hót, hoa tràn trước sân Thương xuân thương đến vô ngần Khi nàng không nói chợt ngừng tay thêu. (Hà Thư Sinh)
******** Trăng tròn thiếu nữ nhẹ thêu gấm Dưới khóm Tử Kinh oanh chuyển cành Thương quá nỗi lòng sao chẳng dứt Dừng kim tình đọng nói không đành (Tử Minh)
******** Gái xinh đưa nhẹ tay thêu, Hoàng anh nhảy nhót líu riu trên cành. Thương nhiều tâm trạng buồn quanh, Khi nàng im lặng, kim mành dừng đưa. (Thien Thanh)