Nguyễn Ức 阮億 hiệu là Lan Trai. Chưa rõ quê quán ở đâu, sinh và mất năm nào. Chỉ biết dưới triều Trần Minh Tông, ông từng làm quan ở viện hàn lâm. Nguyễn Ức còn là bạn thân của Văn Huệ Vương Trần Quang Triều, có tham gia thi xã Bích Động do Trần Quang Triều sáng lập.
Tác phẩm của ông hiện còn 20 bài thơ chép trong "Toàn Việt thi lục".
Đạo nhân lai tự Sùng Thiên cung, Thủ đề nhất bức mô hồ long, Vân thị Trùng Hoa thánh nhân vạn cơ hạ, Mặc hý tam muội thời thung dung.
Thủ trung tạo hoá diệu vô tích, Ngư thoa tạm thác Đào gia bích. Động tiền độc đới thấp vân quy, Tiên khởi Bình Ê khu tích lịch.
Xuân hồi ngũ tự khê lưu quang, Ấn phân tam đạo châu ngưng hương. Nhiệt đàn triển bái tạ thiên tứ, Ngâm thanh phảng phất sinh công đường.
Bình sinh phan long sự tắc dĩ, Nhất phiến thiền tâm tuỳ hải thuỷ. Chí tôn nhược đãi vi lâm thời, Chỉ hợp hình cầu trúc nham sĩ.
Dịch nghĩa
Tạ ơn vua ban tranh thủy mặc vẽ rồng Có vị tăng từ cung Sùng Thiên tới, Tay cầm một bức tranh rồng dáng chập chờn, Nói là cùa bậc thánh Trùng Hoa nhân khi muôn việc rảnh, Thung dung vẽ chơi vài nét chấm phá.
Bàn tay sáng tạo nhuần nhuyễn diệu kỳ, Chiếc thoi người đánh cá tạm gửi lại nơi vách họ Đào. Trước cửa động, riêng chỉ mang về mây ướt, Quất thần gió dậy, xua thần sấm.
Mùa xuân về trên năm chữ như những dòng khe chảy ánh sáng, Dấu ấn chia làm ba đường như những hạt châu đọng mùi thơm. Đốt hương trầm lạy tạ ơn trời cho, Tiếng ngâm phảng phất vọng lên giữa công đường.
Việc "vin vảy rồng" trong đời đã thành chuyện qua rồi, Một tấm lòng thiền nay phó cho nước bể khơi. Bậc "chí tôn" nếu trông chờ cơn mưa tầm tã, Chỉ cần tìm kẻ sĩ đúng hình dạng đang đắp tường ở Phó Nham.
Nhất đôi lão thạch trúc sâm si, Cô hạc biền huyên vị khẳng phi. Hồi thủ bất tu phòng tại hậu, Võng la chính thị nhãn tiền ky (cơ). Dịch nghĩa
Đề tranh "Cố bộ hạc đồ" Một đống đá cũ, khóm trúc loi thoi, Con hạc cô đơn dùng dằng chưa chịu bay. Đừng ngoảnh đầu lại đề phòng đằng sau, Lưới giăng chính là cơ sự đã ở ngay trước mắt.
Dịch thơ Khóm trúc loi thoi, đá mấp mô, Dùng dằn cánh hạc, thế đơn cô. Thôi đừng ngoảnh lại đằng sau nữa, Lưới trước chờ kia chẳng phải dò! (Tuấn Nghi)
Đồ mi Áp giá sơ khai tam lưỡng chi, Thượng Dương cung nữ đối sầu thì. Nhất sinh bất thức mai hoa diện, Độc điện thiều quang tác hậu kỳ.
Dịch nghĩa
Hoa Đồ mi Vài ba cành mới nở đề lên trên dàn, Cũng là lúc người cung nữ ở Thượng Dương đang sầu khổ. Suốt đời chẳng biết mặt hoa mai là gì cả, Riêng mình đến muộn, lẽo đẽo theo sau bóng thiều quang.
Dịch thơ Cành hoa mới nở trên dàn Thượng Dương cung thất riêng nàng khổ đau Hoa mai đời có biết đâu Riêng mình đến muộn đành sau bóng thiều. (Diệp Y Như)
Động Nhiên phong hữu cảm Cao ngoạ thương vân niệm tối thâm, Kỵ Cơ khứ hậu diểu nan tầm. Quân vương vô phục tha thời mộng, Viên hạc không sơn dạ dạ tâm.
Dịch nghĩa
Cảm xúc khi qua đỉnh núi Động Nhiên Nằm cao tận mây xanh, nghĩ rất sâu, Người cưỡi sao Cơ đi rồi, mờ mịt thật khó tìm. Giấc mộng nhà vua ngày nào, nay không còn trở lại, Trên ngọn núi vắng, đêm đêm chỉ còn tấm lòng của vượn, hạc mà thôi.
Điếu đài Hán đỉnh diêm mai nhất lũ khinh, Đồng Giang phong nguyệt hữu dư thanh. Dương cừu vật sắc vô đào xứ, Nhạ đắc nhân gian vạn cổ danh.
Dịch nghĩa
Chòi câu Vạc nhà Hán và chuyện mối mơ xem nhẹ hơn một sợi dây, Trăng gió trên Đồng Giang thừa sự thanh cao. Chiếc áo da cừu bị tìm vời không còn nơi lẩn tránh, Nên buộc phải lưu lại thanh danh muôn thuở ở đời.
Dịch thơ "Muối mơ vạc Hán" nhẹ dường tơ, Trăng gió Đồng Giang sảng khoái thừa. Chiếc áo da cừu khôn lẩn tránh Đành lưu danh lại với ngàn xưa. (Đào Phương Bình)
Bạc chu Ứng Phong đình ngẫu đề Hệ lãm giang đình mịch thắng du, Tiền triều hành điện dĩ hoang khâu, Oanh hoa bất thức hưng vong sự, Liêu loạn xuân quang vị khẳng hưu.
Dịch nghĩa
Đậu thuyền bên đình Ứng Phong ngẫu hứng đề thơ Buộc thuyền cạnh đình bên sông tìm chơi thắng cảnh, Hàng cung triều trước, đã thành gò hoang. Mùa xuân chẳng biết việc hưng phế, Làm rối nắng xuân mãi chưa thôi!
Dịch thơ Buộc thuyền, thắng tích thăm dò, Hành cung triều trước, nay gò bãi suông. Réo kêu xuân mãi chẳng buông, Oanh, hoa nào biết chi tuồng phế hưng. (Nguyễn Tấn Hưng)
******** Thuyền buộc ven sông, tìm thắng cảnh, Triều xưa hàng điện mất đâu rồi. Oanh hoa chẳng biết trò hưng phế, Quấy rối ngày xuân mãi chửa thôi! (Đào Phương Bình)
Biên tập Cúc Đường di cảo cảm tác Lăng bách âm âm toả thuý vi, Sổ thanh đề điểu tống tàn huy. Đĩnh Hồ ba phiếm long du viễn, Hoa biểu vân thâm hạc vị quy. Khách lộ kỷ niên ta lạo đảo, Quân thiên ngọ dạ mộng y hi. Ỷ lan vô hạn thương tâm sự, Mục đoạn sơn thành lệ ám huy.
Dịch nghĩa
Cảm tác khi biên tập di cảo của Cúc Đường Những cây bách trên lăng mộ âm u, một màu xanh biếc trùm kín, Vài tiếng chim tiễn đưa bóng chiều tàn. Sóng Đĩnh Hồ rập rờn, rồng càng xa vắng, Mây hoa biểu mù mịt, hạc vẫn chưa về. Ôi, lận đận bao năm trên con đường đất khách, Mộng chập chờn giữa trời lúc nửa đêm. Tựa lan can, chuyện đau lòng không kể xiết, Vời trông rặng núi, những gạt lệ thầm.
Dịch thơ Lăng mộ âm u, cụm bách già, Chim kêu mấy tiếng tiễn chiều tà. Đĩnh Hồ sóng động, rồng càng vắng, Hoa biểu mây mù, hạc vẫn xa. Đất khách bàn chân tê tái bước, Lưng trời, hồn mộng chập chờn qua. Tựa sông đứng lặng, lòng đau xót, Núi dựng thành sầu, giọt lệ sa. (Tuấn Nghi)
Chu quá Bắc Giang Tiên Du tác Khách phàm lịch lịch quá Tiên Du, Tu kiến thanh sơn đối bạch đầu. Bán tháp tịch dương cô sát quýnh, Nhất giang minh nguyệt tứ kiều thu. Sương dư hồng đạo liên vân thục, Vũ hậu đan phong cách ngạn vu. Quy tứ bất kham phùng nghịch thuỷ, Chỉ trình hà nhật đáo Thần Châu.
Dịch nghĩa
Làm khi thuyền qua Tiên Du ở Bắc Giang Buồm khách chặng chặng qua Tiên Du, Thẹn thấy non xanh đối cùng đầu bạc. Bóng chiều rớt lại trên nửa ngọn tháp, xa tít một ngôi chùa cô đơn, Một giòng sông trăng sáng, bốn nhịp cầu thu. Sau khi sương sa, lúa chín vàng liền với chân mây, Sau lúc mưa tạnh, chòm phong đỏ bên kia sông xa lắc. Chịu sao nổi, khi lòng muốn về, lại gặp giòng nước ngược. Đường đi tuy gang tấc, biết ngày nào tới Thần Châu.
Dịch thơ Tiên Du lớp lớp buồm giăng Bạc đầu ngồi trước non xanh thẹn thùng Chiều nửa tháp chùa chon von Cầu thu bóng nhịp trăng sông sáng ngời Lúa vàng bát ngát sương rơi Sau mưa bờ nọ đỏ tươi rừng bàng Muốn về nước lại xoay ngang Đường đâu xa vẫn chưa gần Thần Châu (Ngô Văn Phú)
Khách xá hoạ hữu nhân vận Cùng cư tuỳ phận ký hành mao, Duy hận mai hoa bất nhập tao. Dạ nguyệt lũ kinh ô nhiễu thụ, Xuân phong kỷ độ yến từ sào. Bần giao thực lãm phương tri vị, Thế sự đoàn sa chỉ mạn lao. Thuyết đáo thử tình do vị tín, Hữu như giang thuỷ mộ thao thao.
Dịch nghĩa
Nơi quán trọ hoạ vần thơ bạn Gặp cảnh cùng, theo số phận, nương thân dưới mái nhà tranh, Chỉ giận hoa mai không vào thơ. Giữa đêm trăng, quạ nhiều lúc kinh sợ bay vòng quanh cây, Trong gió xuân, én bao phen rời tổ. Bạn nghèo kết giao, ăn quả trám,mới biết vị, Việc đời lấy tay mắm cát, chỉ tổ nhọc mình Nói đến cảnh tình ấy còn chưa tin được, Thì có nước sông chiều hôm cuồn cuộn chảy kia!
Dịch thơ Nương mái tranh nghèo sống lắt lay, Lòng buồn còn thiết chi mai! Đêm trăng quạ sợ quanh cây lượn, Én nọ bao phen bỏ tổ bay. Tình bạn như người ăn quả trám, Việc đời tựa cát nắm trên tay. Giãi lòng đến thế còn ngờ vực, Sông nước chiều hôm chứng dạ này! (Tuấn Nghi)
Lạc Mai Miến tưởng Giao Trì a mẫu du, Hương Sơn nhất khúc sính phong lưu. Hàm Chương công chúa sơ trang ngạch, Kim Cốc giai nhân hốt truỵ lâu. Hoà nguyệt dị sinh kim tịch mộng, Điểm song do đới cựu niên sầu. Tự khai tự lạc vô tình vật, Uổng sử ngâm ông tận bạch đầu.
Dịch nghĩa
Mai rụng Hồi tưởng cuộc chơi của Vương Mẫu ở Dao Trì, Một khúc Hương Sơn tỏ phong lưu. Công chúa cung Hàm Chương vừa được cánh hoa mai điểm trang trên trản, Giai nhân vườn Kim Cúc bỗng rơi xuống lầu. Hoà với trăng, dễ sinh ra giấc mộng đêm nay, Điểm bên song, còn mang nỗi buồn nhớ năm xưa. Giống vô tình tự nở rồi tự rụng, Luống để nhà thơ đến bạc cả đầu.
Dịch thơ Dao Trì, Vương Mẫu chuyện đâu đâu, Một cảnh Hương Sơn cũng đủ màu. Công chúa Hàm Chường vừa điểm trán, Giai nhân Kim Cốc bỗng sa lầu. Mai hoà với nguyệt xui nên mộng, Mai tựa bên song gợi nhớ sầu. Khi nở, khi tàn mai có biết? Thi nhân đến phải bạc phơ đầu! (Tuấn Nghi)
Nguyên nhật yết Diên Quang tự Nguyệt Đàm thượng nhân Đông phong trước ý đáo Kỳ Lâm, Lộ nhập Tào Khê bất viễn tầm. Kỷ xứ vũ hoa bình giảng tịch, Nhất đàm hàm nguyệt ấn thuyền tâm. Đạo vô nam bắc nhân do cổ Thi thiệp Phong, Tao thú cánh thâm. Chủ vĩ thập niên lao mộng tưởng, Biện hương hà hạnh đắc như câm.
Dịch nghĩa
Mồng một tết yết kiến Nguyệt Đàm thượng nhân ở chùa Diên Quang Gió xuân hữu ý tới Kỳ Lâm, Lối vào Tào Khê không phải tìm xa nữa. Mấy chỗ mưa hoa rơi đều trên chiếu giảng, Một đầm trăng lạnh in tấm lòng thiền. Đạo không chia nam bắc, người vẫn như thời cổ, Thơ đạt tới mức Phong, Tao càng lắm thú vị. Giảng đạo mười năm, ước mộng nhọc nhằn, May sao được dâng một nén hương như hôm nay.
Dịch thơ Gió xuân đưa tới kỳ Lâm, Tào Khê đây lối, phải tìm chi xa. Mấy nơi chiếu giảng mưa hoa, Một đầm trăng lạnh, in qua lòng thiền. Đạo chung nam bắc rọi truyền. Phong, Tao chuẩn mực, khơi niềm thú sâu. Mười năm mộng tưởng lẽ mầu, May sao được dịp, nay hầu dâng hương. (Hoàng Lê)
Tống Cúc Đường chủ nhân chinh Thích Na Tướng đàn bái liễu, phụng thiên tru, Thố quật na dung thủ thử mưu. Cổ giốc lệnh nghiêm chiên trướng dạ, Cung đao thanh động Ngọc Sơn thu. Dã phân vạn táo man yên tản. Khoáng hiệp tam quân sĩ khí trù. Bi ký bình Hoài tuyên thịnh sự, Mạc trung hoàn hữu Thoái Chi phầu?
Dịch nghĩa
Tiễn Cúc Đường chủ nhân đi đánh giặc Thích Na Nhận chức tướng quân xong, vâng lệch trời đi chinh phạt, Không để cho thỏ trong hang mưu thập thò như chuột. Hiệu lệnh trống còi nghiêm nhặt nơi chiên trướng lúc ban đêm, Tiếng cung đao vang động miền Ngọc Sơn giữa mùa thu. Muôn bếp tán loạn, khói xóm Mường lên rải rác, Ba quân đùm bọc, khí thế tràn đầy. Bia ghi công bình định đất Hoài tuyên dương việc hay, Trong quân trướng còn có Hàn Thoái Chi hay không?
Tống thị thần Mạc Dĩnh Phu sứ Nguyên Bái liễu long nhan xuất đế đô, Hoàng hoa ca bãi hựu Ly câu. Cửu trùng hồi thủ Bồng vân diểu Thiên lý luận tâm Hán nguyệt cô. Đáo thủ công danh chân tiễn tử. Diễn nhân sự nghiệp khước sầu ngô. Giang Nam nhân vật tri đa thiểu, Hoàn hữu tân thi ký nhạn vô ?
Dịch nghĩa
Tiễn quan thị thần Mạc Dĩnh Phu đi sứ nhà Nguyên Lạy vua xong, ra khỏi kinh thành, Hát hết khúc Hoàng hoa lại hát khúc ly câu. Ngoảnh đầu nhìn chốn cửu trùng, mây Bồng mờ mịt, Nói tới tâm sự kẻ đi nghìn dặm, trăng Hán cô đơn. Công danh đến tay, thèm được như cảnh bác, Sự nghiệp làm lầm lỡ con người, buồn cho nông nỗi tôi. Đất Giang Nam có biết bao nhiêu nhân vật, Liệu còn bài thơ mới nào gửi cho chim nhạn không ?
Thư hoài phụng trình Cúc Đường chủ nhân Hồi thủ vân cù vạn lý diêu (dao), Giang hồ bình tích tín phong phiêu. Quy điền phú tựu hoang tam kính, Lậu hạng bần dư lạc nhất biều. Bạch phát đa tình liên khách lão, Thanh sơn hữu ước dữ thuỳ chiêu. Trần anh nghĩ hướng Thương Lương trạc, Tảo vãn Hồ Thiên phỏng tịch liêu!
Dịch nghĩa
Ghi nỗi lòng, vâng trình Cúc Đường chủ nhân Ngoảnh nhìn đường mây muôn dặm xa xôi, Dấu bèo trên sông nước, mặc gió trôi dạt. Bài phú Quy điền làm xong, ba luống vườn hoang vu, Cảnh nghèo nơi ngỏ hẻm, vui với bầu nước nhạt. Tóc bạc, nhiều tình cảm, thương người nơi đất khách đã già, Từng hẹn ước với non xanh, biết rủ ai cùng đi với. Đem giải mũ đầu bụi ra giặt ở Thương Lương, Sớm muộn cũng đến Hồ Thiên, thăm nơi thanh vắng.
Thu dạ dữ cố nhân Chu Hà thoại cựu Thu lai ngẫu bạng cúc hoa tùng, Nhất thất chi lan xú vị đồng. Thế sự phiếm luân đăng ảnh ngoại, Giao tình thâm ký tửu bôi trung. Kỷ hành bạch phát thì tương vãn, Vạn lý thanh vân tín vị thông. Ðộc đối bất lai kim tịch mộng, Tây phong xuy vũ lạc ngô đồng.
Dịch nghĩa
Ðêm thu cùng bạn Chu Hà ôn chuyện cũ Mùa thu về, ngẫu nhiên ngồi bên khóm hoa cúc, Cùng một nhà chi lan, hương như nhau. Bên ánh đèn bàn phiếm việc đời, Tình bầu bạn gửi hết vào chén rượu. Vài sợi tóc bạc, báo tuổi đã sắp già, Đường công danh vạn dặm, nay vẫn chưa tỏ lối. Riêng gặp mặt nhau, đêm nay khỏi phải nằm mộng, Gió tây hắt mưa làm rụng lá ngô đồng.
Dịch thơ Khéo sao cùng ngắm cúc hoa vàng, Chung một nhà hương phảng phất lan. Thế sự bàn suông đèn hắt bóng, Tình sầu gửi trọn chén say tràn. Lưa thưa mái tóc bao chòm bạc Thăm thẳm công danh mấy dặm ngàn! Gặp gở, há cầu đêm gối mộng Ngô đồng mưa rụng gió thu sang. (Nguyễn Tấn Hưng)
Trai tiền bồn tử lan hoa Cao tiêu tằng thức Sở từ trung, Nhất chủng phong quang cửu uyển đồng. Thiên tự hữu tình liên tịch mịch, Vị lưu thanh phức bạn ngâm ông
Dịch nghĩa
Hoa lan trong bồn trước nhà Từng biết được nêu cao trong Sở từ, Một vẻ phong quang chín khoảnh đất đều giống nhau. Trời hình như có ý thương cảnh vắng vẻ, Đã để lại mùi thơm trong sạch làm bạn với nhà thơ.
Trùng dương tiền nhất nhật đáo Cúc Đường cựu cư hữu cảm Cao hội Long Sơn tích dĩ trần, Tây phong hồi thủ lệ triêm cân. Trinh tâm khước ái đông ly cúc, Khẳng bả thanh hương mị biệt nhân.
Dịch nghĩa
Cảm xúc khi đến ngôi nhà cũ của Cúc Đường hôm trước tết trùng dương Cuộc yến hội ở Long Sơn dấu vết đã mờ, Gió tây thổi ngoảnh đầu lại, nước mắt thấm khăn. Lòng trong trắng chỉ yêu hoa cúc ở giậu phía đông, Há chịu đem hương, thanh mơn trớn kẻ khác.
Vãn tư đồ công Kỵ Cơ nhân khứ bạch vân thâm, Thiện loại tương phùng thán lục trầm. Dĩ hĩ cửu trùng vong Nguỵ giám, Y nhiên tứ hải khát Thương lâm. Công ngôn do táng gian thần đảm, Hậu ngộ nan vong quốc sĩ tâm. Lưu thuỷ cao sơn diểu nhược mộng, Vị thuỳ tái phất bích gian cầm.
Dịch nghĩa
Viếng quan tư đồ Người cưỡi sao Cơ đi mất, mây trắng mịt mù, Những bậc thiện gặp nhau, than thở cảnh ngập chìm trên cạn. Ôi thôi! Chín tầng đã mất tấm gương họ Nguỵ, Bốn biển vẫn khao khát trận mưa dầm của nhà Thương. Lời nói của người còn làm cho bọn gian thần khiếp đảm, Tình tri ngộ đậm đà, lòng kẻ quốc sĩ khó quên. Nước chảy, non cao, mịt mờ như giấc mộng, Vì ai lại phủii cây đàn trên vách một lần nữa.
Xuân nhật thôn cư Trúc kính âm âm, thảo sắc thê, Sài môn thâm toả, trú yên mê. Chi đầu hoa trọng phong tu phấn, Liêm ngạch cần hương yến tử nê. Khoá bộc vận đồng kiêu dược phố, Hô nhi khiên độc thí xuân lê. Bàng nhân thuyết trước vi quan hảo, Lãn noạ vô tâm báo xú thê.
Dịch nghĩa
Ngày xuân ở nông thôn Lối trúc râm mát, màu cỏ xanh tươi, Cửa sài đóng chặt, khói ban ngày mờ toả. Phấn ở hoa đầu cành làm nặng râu ong, Bùn ở khóm rau cần trước mành cửa làm thơm dấu chân chim én. Bảo đầy tớ xách thùng tưới vườn cây thuốc, Gọi thằng con dắt nghé, thử chiếc cày xuân. Người chung quanh cứ bảo đi làm quan tốt, Lười không nghĩ việc báo đáp cho người vợ quê