Phạm Mại 范邁 cũng thường gọi Phạm Tông Mại 范宗邁 hiệu Kính Khê, sinh và mất năm nào chưa rõ. Người hương Kính Chủ, huyện Giáp Sơn, phủ Tân Hưng, là anh em ruột với Phạm Ngộ. Ông nguyên họ Chúc tên Cố sau vì vua Trần Nhân Tông cho rằng họ Chúc không phải là một họ lớn nên đổi làm họ Phạm. Còn tên Cố thì lại trùng với tên thầy học Nguyễn Sĩ Cố nên đổi sang Mại.
Phạm Mại tính tình thẳng thắn nên trong đời làm quan từng nhiều phen bị giáng chức. Bắt đầu vào triều với chức Thị nội học sinh. Dưới triều Trần Minh Tông (1314-1329), ông có đi sứ nhà Minh cùng với Nguyễn Trung Ngạn. Khi về làm chức Ngự sử trung tán, rồi sau thăng lên chức Môn hạ sảnh đồng tri.
Thơ văn Phạm Mại hiện còn rất ít, giọng thơ cũng thanh thoát, đạm bạc như thơ người anh nhưng không sắc nét bằng. Niềm tâm sự gửi gắm trong thơ ông là một tinh thần nhập thế tích cực, dẫu phải nếm trải bao nhiêu gian lao vất vả vẫn không muốn rời bỏ chức vị mà trở về núi cũ.
Đề ẩn giả sở cư hoạ vận Đáo xứ tri quân xú vị lan, Trượng lê xao phá bích đài ban. Nhất khâm nhân vật hồn vô phận, Sổ mẫu điền viên túc tự khoan. Đào lệnh quy tâm đới tùng cúc, Thiếu Lăng ngâm hứng động giang san. Đa tình tối ái đường tiền cảnh, Vân ngoại du du quyện điểu hoàn.
Dịch nghĩa
Hoạ vần bài thơ đề nơi ở của ẩn sĩ Khắp nơi đều biết bác [có danh thơm] như mùi vị hoa lan, Chiếc gậy lê dằm nát cả đám rêu xanh loang lổ. Vạt áo công danh, hoàn toàn không vướng víu, Vài mẫu ruộng vườn đủ cho mình thoải mái. Lòng muốn về của quan Lệnh họ Đào mang theo tùng cúc, Tiếng ngâm thơ của Thiếu Lăng vang động núi sông. Giàu tình cảm, yêu mến nhất cảnh vật trước nhà, Ngoài tầng mây thăm thẳm con chim mỏi bay trở về.
Dịch thơ Chốn chốn hương lan đã nức danh, Gậy lê dầm nát đấu rêu xanh, Một tà áo gấm thôi vương vấn, Vài mẫu vườn ao cũng thoả tình. Bành-trạch lòng về thông cúc sẵn, Thiếu-lăng ngâm hứng nước non quanh. Đa tình mến cảnh nơi nhà cũ, Mây thẳm chim về gắng lướt nhanh. (Phạm Tú Châu)
Bắc sứ ngẫu thành Dã quán tằng kinh túc, Ngâm tiên cố thiểu lưu. Bạch vân đương hộ hiểu, Hoàng diệp mãn lâm thu. Đoạn nhạn hy gia tín, Đề viên tự khách sầu. Thử sinh hưu cánh vấn, Hành chỉ nhậm du du.
Dịch nghĩa
Đi sứ phương bắc ngẫu nhiên làm Từng qua đêm ở cái quán đồng nội này, Cho nên chiếc roi thơ nay tạm dừng lại đây một chốc. Buổi sáng, mây trắng ngay trước cửa. Mùa thu, lá vàng đầy rừng. Cánh nhạn lạc bầy, tin nhà vắng, Tiếng vượn hú vang, khách tự sầu. Cuộc đời này thôi đừng hỏi nữa, Đi hay dừng, phó mặc cho [tương lai] mờ mịt.
Lâm chung thị ý Tự lòng trích lạc hạ nhân gian, Lục thập dư niên nhất thuấn khan. Bạch Ngọc lâu tiền thu dạ nguyệt, Triều chân y cựu bạng lan can.
Dịch nghĩa
Bày tỏ ý mình khi sắp mất Từ khi bị đày xuống cõi trần, Hơn sáu mươi năm, coi như một nháy mắt. Dưới ánh trăng đêm thu trước lầu Bạch Ngọc, Lên chầu trời, ta lại dựa vào lan can như cũ.
Dịch thơ Từ khi đày đoạ xuống nhân gian, Hơn sáu mươi năm nháy mắt tan. Trăng sáng đêm thu lầu Bạch Ngọc, Chầu trời, ta lại dựa lan can. (Nguyễn Văn Lãng)
Nhàn cư đề thuỷ mặc trướng tử tiểu cảnh Hồng thụ nhất khê lưu thuỷ, Thanh sơn thiên lý tà dương. Dục hoán biển chu quy khứ, Thử sinh vị bốc hành tàng.
Dịch nghĩa
Nhàn rỗi đề thơ bức tranh nhỏ trên tấm trướng thuỷ mặc Cây đỏ bên một giòng suối nước chảy, Núi xanh trong nghìn dặm bóng chiều. Muốn gọi chiếc thuyền để về, Cuộc đời này chưa bói được lẽ "hành tàng".
Dịch thơ Lá úa, rạt rào suối chảy, Non xanh, nghìn dặm bóng tà. Quê cũ, buồm căng muốn trẩy Ở, đi! Ơi hỡi lòng ta! (Khuyết Danh)
******** Lá thắm một giòng suối chảy, Non xanh nghìn dặm bóng tà. Muốn gọi con thuyền về ẩn, "Hành tàng" ta bói chưa ra. (Tuấn Nghi)
Phỏng Tăng Bãi thoát trần trung bạ điệp mang, Tạm huề liêu lại phỏng tăng phường. Bích khê tuyết tịnh trà âu sảng, Hồng thụ phong đa trúc viện lương. Từ bộ yếu cùng chung nhật hứng, Thanh đàm vi giải thập niên cuồng. Thi thiền khám phá liêu quy khứ, Nhất lộ bồ hoa địch diệp phương.
Dịch nghĩa
Thăm sư Thoát khỏi sự bận rộn về sổ sách văn thư ở cõi trần, Tạm dắt mấy người nha lại đến thăm chỗ của nhà sư. Suối biếc, tuyết sạch, ấm trà thanh sảng, Cây cỏ, gió nhiều, nhà trúc mát mẻ. Bước chậm rãi, muốn giữ hứng đến trọn ngày, Bàn chuyện thanh cao cốt giải thoát bệnh cuồng mười năm. Đã hiểu được chất thi vị của thiền, xin cáo biệt, Dọc đường đi, mùi hoa cói và lá sậy thơm tho.
Dịch thơ Bù đầu may được bữa thong dong, Dắt bạn đồng liêu vãn cửa không. Suối biếc tuyết trong trà vị đượm, Cây vàng gió cuốn viện tre lồng. Gò chân bách bộ tăng niềm hứng, Mượn chuyện thanh đamf giải bệnh ngông. Tạm biệt nhà sư về kẻo muộn, Đầy đường cói sậy toả hương nồng. (Tuấn Nghi)
******** Văn thư bề bộn gác bên lòng, Dắt bạn đồng liêu vãn cửa không. Tuyết sạch trà thanh, giòng suối biếc, Gió nhiều, viện mát, rặng cây hồng. Chân khoan, trọn buổi thu niềm hứng, Chuyện nhà, mười năm cởi khói ngông. Khám phá thơ thiền khi cáo biệt, Đầy đường lao cói ngát hương nồng. (Phạm Tú Châu)
Thiên thu giám phú Y tích đế đình, Hữu thần Cửu Linh. Hoài đan bão tố, Hàm hoa thổ anh. Động đạt hồ trị loạn thi lý; cảm thông hồ hiến thế chi thành. Nãi toản thuật kỳ hưng phế; dụ quyết giám chi thậm minh.
Ư thị: Vận ứng thiên thu; thần đương lệnh tiết. Y dư hưu tai; kỳ ý nhược viết: Linh đinh quy hạc, khởi túc vi chúc thánh chi phù; đản mạn thần tiên, hồ khả ngữ trường sinh chi quyết.
Thị giám dã: Chí tinh chí minh; ký dung ký triệt. Đạo đức quảng hồ quy mô; lễ nghĩa kiên hồ kim thiết. Lẫm kỳ khí hề băng sương; bính kỳ văn hề nhật nguyệt. Chiếu chi hôn giả khả sử minh; ma chi ngu giả sử triết. Nhân tái tả dĩ tái trình; dụng viên minh nhi viên khiết. Phi độc quy mỹ ư ngô quân; nhi khả dĩ vi vạn thế chi quỹ triệt.
Đãi phù: Kim môn ký tịch; ngọc lậu sơ tàn. Tương nguỵ hội thê hàng chi vạn quốc; long trì la kiếm bội chi thiên quan. Hải vũ khánh hồng lưu chi thuỵ; tung hô đằng điện nhiễu chi hoan.
Cửu Linh nãi: Nga quan bệ trắc; tấn hốt yêu gian Dung nghi nghiêm túc; bộ vũ thư nhàn. Gián quần thần ư triều liệt; hồi nhất cố ư uy nhan. Ký suy thành nhi hiến giám; phục khể thủ nhi phi can, Thần ngôn minh hồ tự giám; thần tâm hách hề nhược đan. Chúng chính ư thị hồ chí thư nhi khí khoát; quần tà ư thị hồ đảm lạc nhi mao hàn.
Cố năng: Truy tung Bính, Hàn; tịnh mỹ Diêu, Tống. Chiếu phát Phủ chi gian tà; động kiến Lộc chi tình trạng dã.
Nhiên thường quái: Thái Tông hữu Nguỵ Trưng nhi vi giám dã, hồ vi bất năng trí Trinh Quán tam thập niên chi thái bình; Minh Hoàng diệc hữu Cửu Linh vi giám dã, hồ vi bất cứu Thiên Bảo mạt niên chi điên chí. Cố sở dụng chi hà như; thiết hữu cảm ư Lý Đường chi sự.
Phương kim: Tường khai thuỵ đán; khánh diệp xương kỳ. Vạn niên ức niên tỷ thọ; nhất nhật nhị nhật duy ky. Giám vu tiên vương, tắc hữu tổ tông chi thành hiến; giám vu vãng sự tắc hữu kỳ ngải chi quang huy. Dĩ trị loạn vi giám giả, thục mỹ thục ác; dĩ đắc thất vi giám giả thục nghiên thục si. Thử ngu thần sở dĩ khể thủ hiến Thiên thu giám giả, kỳ thiên tử kỳ giám vu tư.
Dịch nghĩa
Phú gương ngàn thu Ấy xưa đế đình, Có chàng Cửu Linh. Ấp ôm trung nghĩa, Ngậm nhả tinh anh. Thấu suốt lẽ đời trị loạn; cảm thông hình sự hiểm lành. Bèn soạn chép chuyện hưng phế; nêu gương nọ thật rành rành.
Bấy giờ: Vận ứng thiên thu; thời nhằm giai tiết. Ôi chao đẹp thay; ý chứng cho biết: Chông chênh rùa hạc, há đủ làm điềm tốt chúc thánh vương; huyễn hoặc thần tiên, sao nên nói phép màu cầu bất diệt.
Tấm gương ấy: Tinh tường rất mực; trong sáng vô vàn. Đạo đức thênh thang khuôn mẫu; lễ nghĩa bền chặt sắc vàng. Hạo khí như băng sương lẫm liệt; văn hoa như nhật nguyệt huy hoàng. Soi tới thì tối tăm trở thành sáng suốt; mài vào thì khờ dại hoá ra mở mang. Thế nên tả nghi để bày tỏ; vậy mới trong sạch mà rõ ràng. Không chỉ quy đẹp về thánh chùa; mà còn làm khuôn mẫu cho muôn đời.
Đến khi: Kim môn đã mở; ngọc lập mới tàn. Khuyết tượng họp thang thuyền muôn nước; thềm rồng bày đai kiếm nghìn quan. Trong bốn biển cầu vồng tuôn diễm phú; tiếng tung hô vang dậy huyện hân hoan.
Cửu Linh bèn: Mũ cao phía bệ; hốt dắt ngang lưng. Dung nghi nghiêm túc; hộ điệu thư nhàn. Rời khỏi hàng Khanh sĩ; nhìn về phía uy nhan. Đã đẩy tấm thành lên mà hiến dâng gương báu; tất dạ trung thần đỏ thắm như son. Đám trung chính từ ấy lòng yên mà khí hả; bọn gian tà từ ấy gáy sởn mà mật tan.
Nên có thể: Noi dấu Bính, Hàn; sánh đẹp Diêu, Tống. Soi rõ lòng tà của Lâm Phủ; nhìn thấu tình gian của Lộc Sơn.
Như thường lạ: Thái tông có Nguỵ Trưng hiến dâng gương tốt mà sao không mang lại được cảnh thái bình cho tới năm Trinh Quán thứ ba mươi; Minh Hoàng cũng có Cửu Linh hiến dâng gương tốt mà không cứu nổi cuộc đảo điên cuối năm Thiên Bảo. Điều trọng yếu là phải biết dùng gương như thế nào; vì vậy, thấy việc nhà Đường Lý mà chạnh lòng.
Như nay: Điềm ra ngày tốt; phúc hợp hội lành. Vạn ức năm trường thọ; một hai ngày là cơ. Soi nơi vua xưa thì có phép sẵn của tiên tổ; soi nơi việc cũ thì có ánh sáng của lão thành. Lấy trị loạn làm gương, đâu đẹp đâu xấu; lấy được mất làm gương, đâu dữ đâu lành. Ấy ngu thần sở dĩ cuối đầu dàng bài Thiên thu giám, là mong được thiên tử soi vào đây chăng. (Tuấn Nghi)