Vãn Pháp Loa tôn giả Thanh Mai tự Thoá thủ trần hoàn dĩ liễu duyên, Giác hoàng kim lũ đắc nhân truyền. Thanh sơn mạn thảo quan tàng lý, Bích thụ thâm sương xác thoát thiền. Dạ yểm giảng đường kim cổ nguyệt, Hiểu mê trượng thất hữu vô yên. Tương đầu châm giới ta phi tích, Trác tựu ai chương lệ huyễn nhiên.
Dịch nghĩa
Đề chùa Thanh Mai viếng Pháp Loa tôn giả Phủi tay thế là xong duyên nghiệp cõi trần, Sợi tơ vàng của Giác vương đã tìm được người truyền lại. Chiếc dép cất trong quan tài dưới đám cỏ rậm trên đỉnh non xanh, Con ve sầu lột xác trong đám sương dầy ở lùm cây biếc. Vấng trăng kím cổ ban đêm khép kín giảng đường, Làn khói "hữu vô" buổi sáng che mờ trượng thất. Duyên "kim cải" gắn bó, than ôi đã khác xưa! Gọt rũa xong bài thơ bi ai thì nước mắt đầm đìa.
Dịch thơ Trắng tay chẳng chút nợ trần mang, Đã có người truyền phép Giác vương. Giầy xếp trong quan, nghìn núi cỏ, Ve ra ngoài xác, một cây sương. Trăng đêm nương náu trong tăng viện, Mù sớm ngăn che trước pháp đường. Kim cổ cùng nhau nay vắng vẻ, Viếng ai một khúc lệ đôi hàng. (Đinh Văn Chấp)
Vãn Quán Viên Huệ Nhẫn quốc sư Tịch dương thụ hạ tạm duy chu, Lịch lịch giang sơn ký cựu du. Huề lý Tây qui hà xứ vấn, Đại Long cảng khẩu thuỷ không lưu.
Dịch nghĩa
Viếng quốc sư Huệ Nhẫn ở chùa Quán Viên Chiều tà, tạm buộc thuyền dưới cây, Non sông vẫn còn đó, nhớ cuộc chơi xưa. Người đã mang dép về Tây Thiên, biết đâu mà hỏi, Cửa khẩu Đại Long nước luống những trôi hoài.
Dịch thơ Cây chiêu rủ bóng buộc thuyền thoi, Đây cảnh năm nào đã ghé chơi. Dép trẩy Tây Thiên, mờ mịt dấu, Đại Long nước cứ lững lờ trôi. (Đào Phương Bình, Nam Trân)
Việt giới Tứ Minh tương tiếp giới, Chỉ cách mã ngưu phong. Ngôn ngữ vô đa biệt, Y quan bất khả đồng. Nguyệt sinh giao thất lãnh, Nhật lạc ngạc đàm không. Khẳng hạn Hoa Di ngoại, Tề đăng thọ vực trung.
Dịch nghĩa
Biên giới nước Việt Châu Tứ Minh tiếp giáp biên giới nước ta, Cách biệt nhau chả đáng là bao. Tiếng nói không khác nhau nhiều lắm, Áo mũ thì không giống nhau. Mặt trăng mọc khiến cho nhà giao long lạnh lẽo, Mặt trời lặn làm cho đầm cá sấu rỗng không. Đâu có sự ngăn cách giữa Hoa và Di, Đều cùng nhau bước lên cõi thọ.
Dịch thơ Tứ Minh nơi biên giới, Cách trở chẳng là bao. Tiếng nói không xa mấy, Khăn áo lại khác nhiều. Ác chìm quang vũng sấu, Thỏ hiện lạnh đầm giao. Di, Hạ đừng phân biệt, Cùng nhau sống dài lâu. (Đào Phương Bình, Nam Trân)
Xuân nhật nhàn toạ Hoa liễu lục thành âm, Liêm câu viện vũ thâm. Vô tình thiên ngoại nhứ, Bất ngữ thụ đầu cầm. Giản cổ Tam hoàng chính, Hi di Ngũ đế tâm. Thế gian nhàn bán nhật, Nhương đắc nhất thiên câm (kim).
Dịch nghĩa
Ngày xuân ngồi chơi Liễu ra hoa tươi tốt đã thành bóng râm, Rèm móc lên rồi mà nhà vẫn sâu kín. Tơ liễu hững hờ bay ngoài trời, Chim chóc im lặng đậu trên ngọn cây. Giản dị thuần phác là chính sự của Tam hoàng, Nhìn không thấy, nghe không được là lòng của Ngũ đế. Ở trần gian mà nhàn hạ được nửa ngày, Thì cũng quý như đoạt được ngàn vàng.
Dịch thơ Liễu đã ra hoa bóng rủ dày, Nhà sâu, rèm cuốn, nắng không hay. Tơ trời vô ý bay trong gió, Chim chóc im lìm đậu khóm cây. Chính sự Tam hoàng thuần phác cả, Tấm lòng Ngũ đế diệu huyền thay. Nửa ngay mong được nhàn công việc, Nghìn lạng vàng kia khó sánh tày. (Băng Thanh)
******** Liễu hoa cành lá rườm rà, Cuối rèm lớp lớp cửa nhà càng sâu. Tơ trời lững thững về đâu? Trên cây chim đậu rầu rầu biếng kêu. Tam hoàng giản dị đáng yêu, Hư không Ngũ đế dễ xiêu lòng này. Ở đời nhàn rỗi nửa ngày, Cũng bằng nắm chắc trong tay ngàn vàng. (Nam Trân)