Trần Nhân Tông 陳仁宗 (1258-1308) tên thật là Trần Khâm 陳昑. Ông là con của vua Trần Thánh Tông 陳聖宗 và là vị vua thứ 3 của nhà Trần, sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (7-12-1258), lên làm vua từ năm Kỷ Mão (1279), niên hiệu là Thiệu Bảo và Trùng Hưng (1285-1293). Lúc trẻ có nhiều tên gọi: Khâm, Phật Kim và Nhật Tôn. Sau khi mất thuỵ hiệu là Nhân Tông.
Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua yêu nước và anh hùng. Lên nối ngôi vua giữa tình thế đất nước đang đứng trước một cuộc xâm lăng không tránh khỏi của đế quốc Nguyên Mông, ông đã cùng vua cha lãnh đạo triều đình và dân chúng khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt, nâng sức chiến đấu của quân và dân lên vượt bậc và nhờ đó đã giành thắng lợi rực rỡ trong hai lần đọ sức với 50 vạn quân giặc (1285 và 1288), lập nên chiến công lừng lẫy trên trang sử của dân tộc và của cả thế giới trong thời đại đó. Ông còn giành những thắng lợi quan trọng trong các cuộc hành binh về phía Tây và phía Nam, củng cố vững vàng biên giới của Tổ quốc. Là người nổi tiếng chan hoà và nhân ái, ông đã xây dựng một chính sách đoàn kết từ trong hoàng tộc đến ngoài muôn dân, thực hiện chủ trương "nới sức dân", đề bạt và tuyển dụng người có tài bằng thi cử để bổ sung cho chế độ thế tập, nới rộng tinh thần dân chủ. Dưới triều đại ông, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là hội nghị các tướng lĩnh ở Bình Than và hội nghị những người già cả trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, tỏ quyết tâm chống giặc. Có thể nói ông là một vị vua có tinh thần "thân dân" nhất đời Trần.
Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hoá, nhà thơ xuất sắc ở thế kỷ XIII. Ông đã sáng lập ra dòng thiền Trúc Lâm ở Việt Nam, đáp ứng một nhu cầu sinh hoạt tinh thần của người Việt đương thời, mặt khác cũng nhằm góp phần vào việc xây dựng một nước Đại Việt có quy mô bề thế, có văn hoá văn minh độc lập, chống lại những ảnh hưởng ngoại lai, phi dân tộc. Riêng trong lĩnh vực thơ văn, ông là một nhà thơ có phong cách. Thơ ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do thích thảng của một nhà nghệ sĩ. Ở đấy cũng thể hiện sự hoà hợp khó chia tách giữa một ngòi bút vừa cung đình vừa bình dị, dân dã, có cả những kiến thức sách vở uyên bác lẫn với sự từng trải lịch lãm.
Vào năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con và nhận tước vị Thái thượng hoàng. Từ đây ông bắt đầu đi sâu vào Phật học. Nhưng mãi đến 1298 ông mới thật khoác áo nhà sư đi thuyết pháp các nơi, chu du khắp đất nước, vào đến tận kinh đô nước Chiêm Thành rồi mới trở về lên tu ở núi Yên Tử, lấy pháp hiệu là Hương Vân đại đầu đà, hoặc còn gọi là Trúc Lâm đại đầu đà, được người đương thời tôn xưng là Giác hoàng Điều ngự. Ông mất ngày 3 tháng 11 năm Mậu Thân (16-11-1308) tại am Ngoạ Vân trên núi Yên Tử.
Tác phẩm: theo các sách "Thánh đăng ngữ lục", "Toàn Việt thi lục", "Đại Việt thông sử", "Lịch triều hiến chưong loại chí", Trần Nhân Tông đã có các tác phẩm "Trần Nhân Tông thi tập", "Đại hương hải ấn thi tập", "Tăng già toái sự", "Thạch thất mỵ ngữ" và bộ "Trung hưng thực lục" do ông sai văn thần biên soạn. Tuy nhiên, hiện chỉ còn tìm thấy 31 bài thơ, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán. Ngoài ra, trong sách "Thiền tông bản hạnh" còn có hai bài văn Nôm biền ngẫu ghi tên ông là tác giả. Chúng tôi (nhóm biên soạn "Hán văn Lý Trần") sưu tập lại dưới đây tất cả những tác phẩm có xuất xứ khác nhau đó, đồng thời còn chọn trích thêm một đoạn văn ngữ lục trong "Thánh đăng ngữ lục" và một lời phát biểu của ông với sứ giả Trương Lập Đạo do chính vị sứ này ghi lại.
Được sửa bởi A Tử ngày Mon 06 Aug 2012, 3:12 am; sửa lần 1.
Thế số nhất tức mặc, Thời tình lưỡng hải ngân*. Ma cung hồn quản thậm, Phật quốc bất thăng xuân. Dịch nghĩa Số đời hoàn toàn mờ mịt Tình người đổi thay qua đôi mắt Khi cung ma bị quản chặt Thì cõi Phật tràn ngập màu xuân. Dịch thơ: Kiếp người chỉ một làn hơi, Tình đời, ngấn lệ ngậm ngùi sầu thương. Ví lòng quản được ma vương, Ấy là cõi Phật mở nguồn hương xuân. (Nguyễn Tấn Hưng)
***** Số đời mờ mịt cả, Tình trong đôi mắt trong. Cung ma nếu quản chặt, Cõi Phật xuân không cùng. (Trần Lê Văn)
*Hải ngân: Đôi mắt. Trong thơ của Tô Thức có câu: "Đống hợp ngọc lâu hàn khởi lật, Quang giao ngân hải huyễn sinh hoa". Các nhà chú giải giảng rằng: Kinh của Đạo giáo gọi xương vai là ngọc lâu và mắt là ngân hải. Ở đây có lẽ chính là ngân hải nhưng vì niêm vận, tác giả phải đổi ngược lại thành hải ngân.
Theo "Thánh đăng ngữ lục", tháng Mười năm Mậu Thân (1308), Trần Nhân Tông được tin công chúa Thiên Thuỵ ốm nặng bèn từ Yên Tử về thăm. Đến ngày 15 tháng Mười âm lịch, sau khi dặn dò xong, Nhân Tông lại trở về Yên Tử. Giữa đường ông nghỉ lại trong một ngôi chùa làng ở hương Cổ Châu, sáng hôm sau trước khi lên đường ông đề bài kệ này lên vách chùa để ngỏ ý mình. Sự việc Nhân Tông từ Yên Tử về thăm công chúa Thiên Thuỵ lúc bà sắp mất, "Đại Việt sử ký toàn thư" cũng có chép.
Đại Lãm Thần Quang tự Thần quang tự diểu hứng thiên u. Sanh thố phi ô thiên thượng du. Thập nhị lâu đài khai hoạ trục. Tam thiên thế giới nhập thi mâu. Tục đa biến thái vân thương cẩu, Tùng bất tri niên tăng bạch đầu. Trừ khước chú hương tham Phật sự, Ta dư niệm liễu tổng hưu hưu.
Dịch nghĩa Chùa thần quang vắng lặng, hứng thú có nét u nhã riêng, Chở ngọc thỏ, cưỡi kim ô du ngoạn trên bầu trời. Mười hai toà lâu đài mở ra bức vẽ, Ba nghìn thế giới thu vào mắt thơ. Thói đời nhiều thay đổi như mây trắng hoá chó xanh, Cây thông chẳng biết đến năm tháng, nhà sư đầu đã bạc. Ngoài việc thấp hương tham thiền ra, Mọi điều suy nghĩ đều cho qua đi hết.
Dịch thơ Chùa vắng thần quang, hầu nhã hứng, Chơi mây, thỏ ngọc, quạ vàng đưa. Lâu đài chín cõi bày tranh vẽ, Thế giới ba ngàn lọt mắt thơ. Biển hoá thành dâu buồn thói tục, Tùng không biết tuổi bạc đầu sư. Ngoài câu cúng Phật, tuần nhang thắp, Lo nghĩ bao điều, mấy cũng ngơ! (Khương Hữu Dụng)
Sinh có nhân thân, Ấy là họa cả; Ai hay cốc được, Mới ốc là đã. Tuần này mà ngẫm, Ta lại xá ta; Đắc ý cong lòng, Cười riêng ha hả. Công danh chẳng trọng, Phú quý chẳng màng; Tần Hán xưa kia, Xem đà nhàn hạ. Yên bề phận khó, Kiếm chốn dưỡng thân; Khuất tịch non cao, Náu mình sơn dã. Vượn mừng hủ hỷ, Làm bạn cùng ta; Vắng vẻ ngàn kia, Thân lòng hỷ xả. Thanh nhàn vô sự, Quét tước đài hoa; Thờ phụng Bụt trời, Đêm ngày hương hỏa. Tụng kinh niệm Bụt, Chúc thánh khẩn cầu; Tam hữu tứ ân, Ta nguyền được bả. Niềm lòng vằng vặc, Giác tính quang quang; Chẳng còn bỉ thử, Tranh nhân chấp ngã. Trần duyên rũ hết, Thị phi chẳng hề; Rèn một tấm lòng, Đêm ngày đon đả. Ngồi cong trần thế, Chẳng quản sự thay; Vắng vẳng ngàn kia, Dầu lòng dong thả. Học đòi chư Phật, Cho được viên thành; Xướng khúc vô sinh, An thiền tiêu sá (sái). Ai ai xá cốc, Bằng huyễn chiêm bao; Xẩy tỉnh giấc hòe, Châu rơi lã chã. Cốc hay thân huyễn, Chẳng khác phù vân; Vạn sự giai không, Tựa dường bọt bể. Đem mình náu tới, Cảnh vắng ngàn kia; Dốc chí tu hành, Giấy sồi vó vá. Lành người chăng chớ, Dữ người chăng hay; Ngậm miệng đắp tai, Hề chi họa cả. An thân lập mệnh, Thời tiết nhân duyên; Cắt thịt phân cho, Dầu là chim cá. Thân này chẳng quản, Bữa đói bữa no; Địa thủy hỏa phong, Dầu là biến hóa. Pháp thân thường trụ, Phổ mãn thái hư; Hiển hách mục tiền, Viên dung lõa lõa. Thiền tông chỉ thị, Mục kích đạo tồn; Không cốc truyền thanh, Âm hưởng ứng dã. Phô người học đạo, Vô số nhiều thay; Trúc hóa nên rồng, Một hai là họa. Bởi lòng vờ vịt, Trỏ Bắc làm Nam; Nhất chỉ đầu thiền, Sát na hết cả.
Kệ rằng : Cảnh tịch an cư tự tại tâm, Lương phong xuy đệ nhập tùng âm. Thiền sàng thụ hạ nhất kinh quyển, Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm (kim). Dịch (kệ): Cảnh vắng ở yên lòng thong dong, Gió lành thổi lộng giữa bóng tùng. Giường thiền dưới gốc, kinh một cuốn, Thanh nhàn hai chữ quá muôn đồng. (Khuyết danh)
****
Sống yên giữa cảnh lặng lòng không, Gió mát hiu hiu lọt bóng thông. Dưới gốc, giường thiền, kinh một quyển, Thanh nhàn hai chữ, đáng muôn đồng. (Huệ Chi)
題普明寺水榭 薰盡千頭滿座香, 水流初起不多涼。 老榕影裡僧關閉, 第一蟬聲秋思長。 Đề Phổ Minh tự thủy tạ Huân tận thiên đầu mãn toạ hương, Thuỷ lưu sơ khởi bất đa lương. Lão dung ảnh lý tăng quan bế, Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường. Dịch nghĩa Xông hết nghìn nén hương, khắp nhà thuỷ tạ thơm ngào ngạt, Dòng nước mới dâng không lạnh lắm. Dưới bóng đa già, cổng chùa đóng im ỉm, Một tiếng ve đầu tiên, tứ thu man mác.
Dịch thơ Nghìn hương thắp hết ngát đầy nhà, Làn nước hiu hiu gió lạnh qua. Dưới bóng đa già chùa vắng vẻ, Tiếng ve khơi động tứ thu xa. (Ngô Tất Tố)
**** Nghìn hương thơm toả ngát nhà, Dòng khơi chớm lạnh thoảng qua phía ngoài. Bóng đa, chùa vắng, cửa cài. Tiếng ve man mác ai hoài tứ thu. (Đỗ Thanh Dương)
Đăng Bảo Đài sơn Ðịa tịch đài du cổ, Thời lai xuân vị thâm. Vân sơn tương viễn cận. Hoa kính bán tình âm. Vạn sự thủy lưu thủy, Bách niên tâm ngữ tâm. Ỷ lan hoành ngọc địch, Minh nguyệt mãn hung khâm.
Dịch nghĩa
Lên núi Bảo Đài Đất hẻo lánh, đài thêm cổ kính, Theo thời tiết, mùa xuân về chưa lâu. Núi mây như xa, như gần, Ngõ hoa nửa rợp, nửa nắng. Muôn việc như nước tuôn nước, Trăm năm lòng lại nhủ lòng. Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc, Ánh trăng sáng chan hoà trước ngực.
Dịch thơ
Ðài xưa dấu cổ hoang liêu, Nơi đây phảng phất còn nhiều vẻ xuân. Mây quanh núi phủ xa gần Ðường quê nắng rợp bóng râm hoa lồng. Việc đời như nước xuôi đông, Trăm năm lòng nhủ cho lòng biết thôi. Tựa lầu đưa sáo lên môi, Trăng soi lòng cũng sáng ngời ánh trăng. (Nguyễn Tấn Hưng)
****** Đất vắng, đài thêm cổ, Ngày qua, xuân chửa nồng. Gần xa, mây núi ngất, Nắng rợp, ngõ hoa lồng. Muôn việc nước trôi nước, Trăm năm lòng nhủ lòng. Tựa hiên, nâng sáo ngọc, Đầy ngực ánh trăng trong. (Ngô Tất Tố)
Họa Kiều Nguyên Lãng vận Phiêu phiêu hành lý lĩnh vân nam, Xuân nhập mai hoa chỉ lưỡng tam. Nhất thị đồng nhân thiên tử đức. Sinh vô bổ thế trượng phu tàm. Mã đầu phong tuyết trùng hồi thủ, Nhãn để giang san thiểu trụ tham. Minh nhật Lô giang yên thuỷ khoát, Bồ đào nộn lục tẩy tâm đàm.
Dịch nghĩa Bước chân sứ giả phơi phới như áng mây ngàn bay về phương Nam, Mùa xuân vừa đến, hoa mai chỉ lác đác vài ba nụ. Thương yêu mọi người như nhau là ân đức của thiên tử, Sống mà không giúp gì cho đời là điều đáng thẹn của kẻ trượng phu. Gió tuyết trước đầu ngựa, người lại trở về, Non sông đầy trong đáy mắt, hãy dừng ngựa lại chốc lát. Ngày mai đã qua sông Lô mênh mông khói nước, Xin cạn chén rượu bồ đào non tươi để rưới mát tấm lòng.
Dịch thơ Non Nam hành lý nhẹ như không, Xuân đến cành mai mới điểm bông. Lòng chúa không riêng ơn vũ lộ, Chí trai quyết trả nợ tang bồng. Ngựa pha sương tuyết quay đầu lại, Mắt ngắm giang sơn ngẩng mặt trông. Mai sáng sông Lô mây nước thẳm, Bồ đào ngọt giọng rưới khuây lòng. (Lê Quý Đôn)
Khuê oán Thuỵ khởi câu liêm khán truỵ hồng, Hoàng ly bất ngữ oán đông phong. Vô đoan lạc nhật tây lâu ngoại, Hoa ảnh, chi đầu tận hướng đông.
Dịch nghĩa
Nỗi oán nơi khuê phòng Ngủ dậy, cuốn mành xem cánh hồng rụng. Chim oanh vàng bặt tiếng, oán gió đông. Không dưng mặt trời lặn phía ngoài lầu tây, Đầu cành bóng hoa đều hướng về phía đông.
Dịch thơ Vén rèm ngủ dậy ngắm hoa rơi, Oanh oán gió đông cứ ngậm lời. Vô cớ bên đoài ô khuất gác, Bóng hoa đầu ngọn ngóng đông hoài. (Đông A)
******* Tỉnh giấc, rèm nâng, ngó rụng hồng, Hoàng anh im tiếng, giận đông phong. Lầu Tây vô cớ, vầng dương lặn, Cả bóng hoa cành ngả hướng đông. (Trần Lê Văn)
Cảnh chiều Lạng Châu Ngôi chùa cổ lạnh lẽo sau lớp khói mùa thu Thuyền câu hiu quạnh chuông chùa bắt đầu điểm Nước trong núi lặng, chim âu trắng bay qua Gió im mây nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ.
Dịch thơ Mây thu lạnh lẽo chùa xưa Thuyền ngư xao xác thoảng đưa chuông chiều Cò bay non nước quạnh hiu Gió yên mây nhẹ liêu xiêu lá hồng. (Hạt Cát)
Mai Thiết đảm, thạch can lăng hiểu tuyết, Tố quần, luyện thuế nhạ đông phong. Nhân gian kiệm tố Hán Văn Đế, Thiên hạ anh hùng Đường Thái Tông.
Dịch nghĩa
Mai Gan dạ sắt đá vượt lên tuyết buổi sáng, Quần lụa mộc, khăn lụa trắng đón gió đông. Như Hán Văn Đế là người tiết kiệm, mộc mạc trong nhân gian, Và Đường Thái Tông là bậc anh hùng trong thiên hạ.
Dịch thơ Gan lì sắt đá nhờn sơn tuyết, Mộc mạc khăn xiêm đón gió đông. Như Hán Văn xưa, danh tiết kiệm, Thái Tông, Đường nọ, tiếng anh hùng. (Đào Phương Bình)
Nguyệt Bán song đăng ảnh mãn sàng thư, Lộ trích thu đình dạ khí hư. Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ, Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.
Dịch nghĩa
Trăng Bóng đèn soi nửa cửa sổ, sách đầy giường, Móc rơi trên sân thu, hơi đêm thoáng mát. Tỉnh giấc không biết tiếng chày nện vải ở nơi nào, Trên chùm hoa quế trăng vừa mọc.
Dịch thơ Ðầy giường sách, ánh đèn soi, Hơi đêm thoáng mát hiên ngoài sương thưa. Tiếng chày đâu đó vẳng đưa, Trên chùm hoa quế trăng vừa mới lên. (Nguyễn Tấn Hưng)
******* Đèn song chếch bóng, sách đầy giường, Đêm vắng sân thu lác đác sương. Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết, Trên cành hoa quế nguyệt lồng gương. (Đào Phương Bình)
Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ Hoan bá nhiêu sầu phong vị trường, Đào sinh, trúc đạm ổn long sàng. Nhất thiên như thuỷ, nguyệt như trú, Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường.
Dịch nghĩa
Đêm mười một tháng Hai Chén rượu rửa sầu có phong vị đậm đà, Chiếc chiếu đào sinh yên ổn trên giường rồng. Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày, Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên.
Dịch thơ Rượu tưới sầu tan, vị đậm đà, Giường rồng, chiếu trúc trải bày ra. Trời trong như nước, trăng vằng vặc, Giấc mộng xuân dài dưới bóng hoa. (TRần Lê Văn)
***** Rửa sầu có rượu nhiều phong vị, Chiếu trúc, giường rồng mọi vẻ cân. Nước ấy vầng xanh, trăng ấy ngọc, Đầy song hoa quyện giấc mơ xuân. (Đào Phương Bình)
Quỹ Truơng Hiển Khanh xuân bính Giá chi vũ* bãi, Thí xuân sam*, Huống trị kim triêu tam nguyệt tam*. Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính*, Tòng lai phong tục cựu An Nam.
Dịch nghĩa
Tặng bánh ngày xuân cho Trương Hiển Khanh Múa giá chi xong, thử tấm áo ngày xuân, Huống nữa hôm nay lại gặp tiết mồng ba tháng ba. Bánh rau mùa xuân, như ngọc hồng bày đầy mâm, Đó là phong tục của nước An Nam xưa nay.
Dịch thơ Múa giá chi rồi, thử áo xuân, Hôm nay, hàn thực, buổi thanh thần. Bánh rau đầy đặn như hồng ngọc, Nước Việt, tục này theo cổ nhân (Trần Lê Văn)
*Giá chi vũ: Điệu múa Giá Chi. Việt âm thi tập chú: giá chi vũ vốn là thác bạt vũ, người ta chép lầm thành quen. Có thể giá chi vũ Nhân Tông nói ở đây là một điệu múa cổ của dân tộc ta.
*Thí xuân sam: Thử tấm áo xuân, có lẽ cũng là tên một điệu múa
*tam nguyệt tam: Mồng ba tháng Ba là tiết thanh minh, trong ngày đó nhân dân ta thường đi tảo mộ và ăn tết bằng các loại bánh, phổ biến nhất là bánh trôi, bánh chay...
*thái bính: Bánh rau, ở đây có thể là bánh khúc
Trương Hiển Khanh: tức Trương Lập Đạo sang sứ nước ta hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1265 để "tuyên dụ" chiếu chỉ của vua Nguyên (Trần Thái Tông đã làm thơ tiễn trong dịp này). Lần thứ hai, vào năm 1291 (dưới triều Trần Nhân Tông) nhằm dụ nước ta quy phục và bắt Nhân Tông thân sang chầu. Nhưng do kết quả ba lần chiến thắng oanh liệt của nhân dân ta, do thái độ mềm mỏng nhưng kiên quyết của vua tôi nhà Trần, Hiển Khanh đã phải có thái độ kính nể. Trong bài thơ hoạ đáp với vua Trần, Hiển Khanh đã viết: "An Nam tuy tiểu văn chương tại, Vị khả khinh đàm tỉnh để oa" (Nước An Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương, Chưa thể nói một cách nông cạn họ là ếch ngồi đáy giếng).
Quân tu ký Cối Kê cựu sự quân tu ký, Hoan, Ái do tồn thập vạn binh.
Dịch nghĩa
Ngươi nên nhớ Việc cũ ở Cối Kê ngươi nên nhớ, Châu Hoan, Châu Ái đang còn hàng chục vạn quân.
Dịch thơ Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ, Hoan, Ái đang còn chục vạn quân. (Đào Phương Bình)
******* Cối Kê chuyện cũ nhớ chăng Nơi Hoan Diễn chục vạn binh vẫn còn (Đỗ Thanh Dương)
Sử chép ngày 26 tháng chạp năm Giáp Thân (tháng 1-1285), giặc đánh vào cửa ải Chi Lăng, Nội Bàng. Trước sức tiến quân ào ạt của 50 vạn quân Nguyên, thế quân ta bất lợi. Trần Quốc Tuấn cho lui quân về Vạn Kiếp. Vua lập tức ngự thuyền ra Hải Đông gặp Hưng Đạo Vương, không kịp ngự thiện, mãi đến chiều người lính Trần Lai mới dâng cơm, được vua ban khen là trung. Hưng Đạo vương vâng mệnh chọn những người dũng cảm làm tiên phong, vượt biển vào Nam, thế quân lên dần. Các quân thấy vậy, không đạo quân nào không đến tập hợp. Vua làm hai câu thơ này đề ở đuôi thuyền.
Về nội dung thì ý nghĩa bài thơ thật phong phú. Có ôn cố tri tân (nhắc lại chuyện cũ thời Xuân Thu Chiến quốc khi Việt Vương Câu Tiễn thất trận, chỉ còn một nghìn quân, lui về Cối Kê ẩn nhẫn mà còn đánh bại được Ngô vương Phù Sai, dựng nên nước Việt cường thịnh bao gồm cả lãnh thổ nước Ngô. So sánh với hiện tại, vua Trần Nhân Tông ngoài các đạo quân đang tham chiến ở mạn Đông Bắc, vẫn còn mười vạn quân ở Châu Hoan, Châu Diễn). Có niềm tin vào sức mạnh dân tộc, có niềm lạc quan tất thắng. Là bài thơ, cũng là khẩu hiệu chiến đấu làm nức lòng quân sĩ...
Sơn phòng mạn hứng kỳ 1 Thuỳ phọc cánh tương cầu giải thoát, Bất phàm, hà tất mịch thần tiên. Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão, Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Dịch nghĩa
Mạn hứng tại sơn phòng kỳ 1 Ai trói buộc mà phải tìm phương giải thoát, [Phẩm cách] chẳng phàm tục cần gì tìm thần tiên. Vượn nhàn, ngựa mỏi, người cũng đã già, Vẫn một chiếc giường thiền ở am mây cũ.
Dịch thơ Ai trói buộc chi, tìm giải thoát? Khác phàm đâu phải kiếm thần tiên. Vượn nhà, ngựa mỏi, ta già lão, Như trước, am mây chốn toạ thiền. (Đỗ Văn Hỷ)
Sơn phòng mạn hứng kỳ 2 Thị phi niệm trục triêu hoa lạc, Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ hàn. Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch, Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn
Dịch nghĩa
Mạn hứng tại sơn phòng kỳ 2 Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm, Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm. Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch, Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn.
Dịch thơ Phải trái rụng theo hoa buổi sớm, Lợi danh lạnh với trận mưa đêm. Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng, Xuân cõi còn dư một tiếng chim. (Đỗ Văn Hỷ)
Vấn: Tích tăng vấn Lang Da hoà thượng: "Thanh tịnh bản nhiên, vân hà hốt sinh sơn hà đại địa". Ý chỉ thị như hà?
Viết: Đại tự ngư thuyền xuất hải.
Tiến vân: Thử ý như hà.
Viết: Thuỳ tri viễn yên lãng biệt hữu thảo thương lường?
Vấn: Như hà thị quá khứ Phật gia phong?
Viết: Viên lâm tịch mịch vô nhân quản, Lý bạch đào hồng tự tại hoa.
Vấn: Như hà thị hiện tại Phật gia phong?
Viết: Bạch thuỷ gia phong mê hiểu yến, Hồng đào tiên uyển tuý xuân phong.
Tiến vân: Như hà thị vị lai Phật gia phong?
Viết: Hải phố đãi triều thiên dục nguyệt, Ngư thôn văn địch khách tư gia.
Tiến vân: Như hà thị Hoà thượng gia phong?
Viết: Phá nạp ủng vân triêu khiết chúc, Cổ bình tả nguyệt dạ tiên trà.
Vấn: Linh vân ngộ đào hoa thời như hà?
Viết: Tự khai, tự tạ tuỳ thời tiết, Vấn trước đông quân tổng bất tri.
Tiến vân: Sát nhân bất trát nhãn thời như hà?
Viết: Thông thân thị đảm.
Vấn: Đại tu hành để nhân, hoàn lạc nhân quả dã vô?
Viết: Khẩu tự huyết bồn a Phật tổ, Nha như kiếm thụ chuỷ thiền lâm. Nhất triêu tử nhập A tì ngục, Tiếu sát nam vô Quan thế âm.
Vấn: Bạch lộ hạ điền, thiên điểm tuyết, Hoàng oanh thụ thượng, nhất chi hoa. Thời như hà?
Viết: Thác.
Tiến vân: Đại tôn đức thác ma sinh?
Viết: Bạch lộ hạ điền, thiên điểm tuyết, Hoàng oanh thụ thượng, nhất chi hoa.
Dịch nghĩa
Thầy trò hỏi đáp Một thầy tăng hỏi: Ngày xưa có thầy tăng hỏi hoà thượng Lang Da rằng: Đã là "thanh tịnh bản nhiên" sao bỗng chốc sinh ra núi sông đất lớn? Ý câu ấy là thế nào?
Nhân Tông đáp: Rất giống thuyền câu ra bể?
Lại hỏi: Thế là ý nghĩa gì?
Đáp: Ai biết tránh xa khói sóng sẽ có riêng điều bàn bạc.
Lại hỏi: Thế nào là gia phong của Phật quá khứ?
Đáp: Rừng vườn vắng vẻ không người quản, Mận trắng đào hồng riêng tự hoa.
Hỏi: Thế nào là gia phong của Phật hiện tại?
Đáp: Nước trắng mênh mông chim én lạc, Vườn tiên đào thắm gió xuân say.
Lại hỏi: Thế nào là gia phong của Phật vị lai?
Đáp: Đợi triều bên bể trăng gần mọc, Nghe sáo thuyền câu khách nhớ nhà.
Lại hỏi: Thế nào là gia phong của Hoà thượng?
Đáp: Áo rách ôm mây, ban mai húp cháo, Bình xưa dốc nguyệt, trời khuya nấu trà.
Hỏi: Thiền sư ở núi Linh vân gặp lúc hoa đào nở là thế nào?
Đáp: Hoa tàn hoa nở theo thời tiết, Dẫu hỏi, Đông quân chẳng biết gì.
Hỏi: Giết người không chớp mắt là thế nào?
Đáp: Toàn thân là mật.
Lại hỏi: Bậc đại tu hành có còn rơi vào vòng nhân quả nữa không?
Đáp: Miệng như bồn huyết chê bai Phật, Răng tựa cây gươm bổ cửa Thiền. Một sớm chết rồi sa địa ngục, Nực cười "Bồ tát" niệm huyên thiên.
Hỏi: Cò trắng dưới đồng, nghìn điểm tuyết, Oanh vàng trong khóm, một nhành hoa. Là thế nào?
Đáp: Lầm rồi.
Lại hỏi: Bậc đại tôn đức làm gì?
Đáp: Cò trắng dưới đồng, nghìn điểm tuyết, Oanh vàng trong khóm, một nhành hoa. (Băng Thanh)
Tảo mai kỳ nhất Ngũ xuất viên ba kim niễn tu, San hô trầm ảnh hải lân phù. Cá tam đông bạch chi tiền diện, Tá nhất biện hương xuân thượng đầu. Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh, Dạ quang như thuỷ khát cầm sầu. Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu!
Dịch nghĩa
Hoa mai sớm kỳ 1 Năm cánh hoa tròn nhị điểm vàng, [Như] bóng san hô chìm, [như] vảy cá biển nổi. Cành hoa trắng xoá suốt trong ba tháng đông, Sang đầu xuân chỉ còn loáng thoáng một vài cánh thơm nhẹ. Móc ngọt chảy mùi thơm làm chú bướm si ngây tỉnh giấc, ánh sáng ban đêm như nước khiến con chim khát buồn rầu. Nếu Hằng Nga biết được vẻ đẹp thanh nhã của hoa mai, Thì có ưa gì cây quế với cung thiềm lạnh lẽo.
Dịch thơ
Năm cánh hoa tròn, vàng nhị phô, Nổi nênh vảy cá, chìm san hô. Đông ba tháng trải, cành khoe trắng, Xuân một làn thơm, nhánh nhẹ đưa. Đêm ngỡ nước trong, chim cháy cổ, Sương lừng hương ngát, bướm tan mơ Hằng Nga như biết đây hoa đẹp, Quế lạnh cung Thiềm, há mến ưa? (Trần Lê Văn)
******* Vàng điểm tua hoa năm cánh tròn San hô chìm bóng vẩy phô tuôn Ba đông cành trắng hoa khoe trước Một nén hương xuân nhánh hãy còn Cam lộ ngát thơm say bướm tỉnh Dạ quang tựa nước khát chim buồn Hằng nga nếu biết đây hoa đẹp Quế lạnh cung Thiềm thôi ở luôn (Lê Mạnh Thát)
Tảo mai kỳ nhị Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn, Đông phong tiên dĩ đáo cô côn (căn). Ảnh hoành thuỷ diện băng sơ bạn, Hoa áp chi đầu noãn vị phân. Thuý vũ* ca trầm sơn điếm nguyệt, Hoạ long* xuy thấp Ngọc Quan* vân. Nhất chi mê nhập cố nhân mộng, Giác hậu bất kham trì tặng quân*.
Dịch nghĩa
Hoa mai sớm kỳ 2 Chỉ năm ngày sợ rét lười ra khỏi cửa, Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn. Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan, Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ. Giọng ca Thuý vũ lắng chìm mặt trăng xóm núi. Tiếng sáo Hoạ long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan. Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân, Tỉnh dậy, không thể đem tặng anh được.
Dịch thơ Năm ngày ngại rét, lười ra cửa. Gốc lẻ nào ngờ đã gió xuân. Mặt nước băng tan, cây bóng ngả, Đầu cành hoa trĩu, ấm chưa phân. Trăng chìm xóm núi, lời ca bổng, Mây ướt quan hà, tiếng sáo ngân. Lạc tới chiêm bao, hoa một nhánh, Muốn đem tặng bạn, khó vô ngần! (Trần Lê Văn)
******** Ngại rét năm ngày cửa biếng ra Gió xuân trước đã đến cây già Bóng giăng mặt nước băng vừa vỡ Hoa trĩu đầu cành ấm chửa pha Xóm núi trăng chìm lời hát Việt Ải quan mây đẫm tiếng tiêu Hồ Một cành lạc tới giấc mơ bạn Tỉnh dậy tặng người chẳng nỡ đưa (Lê Mạnh Thát)
Thuý vũ: Tức "Thuý vũ ngâm", tên một từ khúc. Cung điệu của khúc ngâm này còn thấy ở bài "Trúc sơn từ" của Tưởng Tiệp. Lời đề tựa của ông nói: Vương Quân Bản trao cho ta một khúc hát theo Việt điệu tên là "Tiểu mai hoa dẫn", bảo ta lấy ý bay lên tiên, bước trong cõi hư không mà làm lời cho khúc hát...
Hoạ long*: Có lẽ là một loại sáo hay tù và có vẽ hình con rồng. Từ hải dẫn lời của Thẩm Ước, Từ Quảng nói rằng tù và của người Hồ chỗ tay cầm vẽ con giao long có chân năm sắc.
Ngọc Quan*: Tên một cửa ải trên đường đi sang Tây Vực thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. ở đây tác giả mượn để miêu tả tiếng sáo Hoạ Long làm ẩm ướt cả đám mây trên cửa ải.
trì tặng quân*: Hai câu cuối lấy ý trong điển Nhất chi xuân, rút từ câu thơ của Lục Khải tặng Phạm Diệp: "Chiết mai phùng dịch sử, Ký dữ lũng đầu nhân. Giang Nam hà sở hữu, Liêu tặng nhất chi xuân" (Bẻ cành hoa mai, gặp được người đưa thư trạm, gửi cho người ở Lũng Đầu. Đất Giang Nam có gì đâu, hãy tặng anh một cành xuân). Nhưng ở đây tác giả chỉ có cành mai trong giấc mộng nên không thể đem tặng bạn được.
Tặng Bắc sứ Lý Tư Diễn Vũ lộ uông dương phổ Hán ân, Phượng hàm đan chiếu xuất hồng vân. Thác khai địa giác giai hoà khí, Tịnh hiệp thiên hà tẩy chiến trần. Tận đạo tỉ thư thập hàng hạ, Thắng như cầm điện ngũ huyền huân. Càn khôn kiêm ái vô Nam Bắc, Hà hoạn vân lôi phục hữu truân
Dịch nghĩa
Ơn nhà Hán như mưa móc tràn trề khắp nơi, Chim phượng ngậm tờ chiếu đỏ xuất hiện nơi đám mây hồng. Mảnh đất mới mở rộng cũng có hoà khí, Kéo sông Thiên hà rửa sạch bụi chiến tranh, Mọi người đều bảo tờ chiếu ban xuống chỉ có mươi hàng, Nhưng hơn hẳn tiếng hoà âm của chiếc đàn cầm năm dây. Trời đất vốn một lòng yêu thương không phân biệt Nam, Bắc. Còn lo gì gặp bước gian truân gió mưa sấm sét.
Dịch thơ
Ơn tuôn mưa móc khắp nơi nơi, Chiếu phượng, tầng mây ban xuống rồi. Hoà khí lan đều trên nẻo đất, Can qua rửa sạch dưới sông trời. Chỉ là tờ ngọc lời thưa thớt, So với đàn cầm giá mấy mươi. Trời đất thương yêu Nam với Bắc Gió mưa cũng đỡ nỗi lo đời. (Trần Lê Văn)
Tống sứ bắc Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai Khảm khảm linh trì noãn tiễn diên, Xuân phong vô kế trụ quy tiên, Bất tri lưỡng điểm thiều tinh phúc, Kỷ dạ quang mang chiếu Việt thiên.
Dịch nghĩa
Tiễn sứ Bắc Lý Trọng Tân và Tiêu Phương Nhai Ao linh trì thăm thẳm, bữa tiệc tiễn đưa ấm áp, Gió xuân không cách nào giữ lại ngọn roi trên đường về. Chẳng hay phúc lành của hai ngôi sao sứ thần, Còn vằng vặc soi trời Việt được mấy đêm nữa!
Dịch thơ Sâu thẳm linh trì, nồng rượu tiễn, Gió xuân không giữ được người về. Nào hay sao sứ hai ngôi phúc, Còn chiếu trời Nam mấy khắc khuya. (Trần Lê Văn)
Tống bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng Thiều tinh lưỡng điểm chiếu thiên Nam, Quang dẫn thai triền dạ nhiễu tam. Thượng quốc ân thâm tình dị cảm, Tiểu bang tục bạc lễ đa tàm. Tiết lăng chướng vụ thân vô dạng, Tiên phất xuân phong mã hữu tham. Đỉnh ngữ nguyện ôn Trung Thống chiếu, Miễn giao ưu quốc mỗi như đàm.
Dịch nghĩa Hai ngôi sao sứ thần chiếu xuống trời Nam, Ánh sáng dẫn theo cung độ mỗi đêm diễu quanh ba vòng. Ơn thượng quốc sâu sắc dễ cảm tình người, Phong tục nước nhỏ đơn giản thẹn lễ nghi sơ suất. Cờ tiết mao vượt qua lam chướng, ngài vẫn bình an. Ngọn roi quất trong gió xuân, ngựa có ngựa kèm. Xin hãy ôn lại lời nói "chuông vạc" trong tờ chiếu năm Trung Thống, Để tránh cho nhau khỏi mối phiền lo nước luôn luôn nung đốt trong lòng.
Dịch thơ Trời Nam, sao sứ chiếu hai ngôi, Dẫn lối ba vòng, đêm sáng soi, Bên ấy, ơn sâu tình cảm động Nơi đây, lễ bạc thẹn sơ sài. Gió xuân vi vút, vui kèm ngựa. Cờ tiết xông pha, mừng khoẻ người. Trung Thống, chiếu xưa, lời hãy nhớ, Nỗi lo đất nước, dịu lòng tôi. (Trần Lê Văn)