Trần Minh Tông 陳明宗 (1300-1357), tên huý là Trần Mạnh 陳孟, là con thứ tư vua Trần Anh Tông, cháu ngoại của Bảo nghĩa vương Trần Bình Trọng, sinh ngày 21 tháng Tám năm Canh Tý (4-9-1300), mất ngày 19 tháng Hai năm Đinh Dậu (10-3-1357).
Thuở nhỏ, vua cha sợ ông khó nuôi như các hoàng tử khác nên Trần Nhật Duật đã nhận ông về nuôi nấng, dạy dỗ như con. Năm 15 tuổi, vua cha lên làm thượng hoàng, Trần Minh Tông được kế vị, trở thành vị hoàng đế thứ năm của triều Trần.
Trong 15 năm làm vua (1314-1329) và 28 năm làm thượng hoàng (1329-1357), Trần Minh Tông đã ban hành nhiều chính sách nhằm củng cố thêm cơ nghiệp nhà Trần. Ông tỏ ra cứng rắn hơn trong việc dùng sức mạnh để quét sạch các lực lượng quấy rối biên giới phía Tây và phía Nam, bảo đảm một bờ cõi yên ổn và vững mạnh. Trong quan hệ với nhà Nguyên, ông vẫn giữ thái độ mềm dẻo nhưng không nhân nhượng, chủ động chống mọi âm mưu lấn đất, nhòm ngó của họ. Về nội trị, Minh Tông chú ý đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, kêu gọi vương hầu trả lại ruộng đất lấn chiếm, giải quyết thoả đáng các vụ tranh chấp ruộng đất. Nho học được đề cao hơn, Phật học giảm dần uy thế. Minh Tông không xuất gia như các tiên đế, ông dặn dò các hoàng hậu cũng đừng đi tu. Dưới triều đại ông, truyền thống cởi mở, thân ái giữa vua tôi vẫn được duy trì. Hai thế hệ sĩ phu - lão thành và trẻ tuổi - đều được thi thố tài năng như nhau, nên sử sách đời sau bình luận rằng thời này "nhân tài đầy dẫy". Tuy nhiên, về cuối triều Minh Tông, mâu thuẫn trong triều dần dần trở nên gay gắt, hình thành những phe phái đối lập, có lúc phát thành những vụ thanh toán tàn khốc đẫm máu. Nhà vua cũng không đủ sáng suốt nên chính ông cũng bị lôi kéo vào những vụ đó, để sau này ông đã phải hối hận.
Về thơ văn, mặc dù khi lâm chung, Minh Tông có sai đốt hết đi, nhưng ngày nay vẫn còn giữ lại được một số. Có thể nói, dưới những sắc thái khác nhau, thơ ông đã phản ánh trung thực tư tưởng, tình cảm và tính cách vủa ông. Qua thơ, Minh Tông tỏ ra là một vị vua có tinh thần chủ động, năng nổ với việc nước, ưu ái đối với các bề tôi giỏi, thương yêu dân chúng trong bờ cõi và cả dân chúng các nước láng giềng. Thơ Minh Tông hùnh hồn, phóng khoáng, nhưng cũng bình dị, tự nhiên, tinh tế. Nhà thơ không ngần ngại bộc bạch những tâm sự sâu kín, những lỗi lầm thời trẻ mà sau này ông mới nhận thức được.
Tác phẩm có "Minh Tông thi tập", 1 quyển, nay đã mất. Hiện chỉ còn 25 bài thơ chép rải rác trong "Toàn Việt thi lục", "Trần triều thế phả hành trạng", "Việt âm thi tập", "Đại Việt sử ký toàn thư" và "Nam Ông mộng lục". Ngoài ra còn một bài tựa cho tập "Đại hương hải ấn thi" của Trần Nhân Tông.
Đề Đông Sơn tự Vân tự thanh sơn sơn tự vân, Vân sơn trường dữ lão tăng thân. Tự tòng Viên công khứ thế hậu, Thiên hạ Thích tử không vô nhân.
Dịch nghĩa
Đề chùa Đông Sơn Mây giống núi xanh, núi xanh giống mây, Mây và núi mãi mãi gần gũi với sư già. Từ sau khi Viên công qua đời, Phật tử trong thiên hạ không còn ai nữa.
Dịch thơ Núi như mây biếc, mây như núi, Mây núi cùng sư bạn một đời. Từ thuở Viên công lìa cõi thế, Dưới trần Phật tử chẳng còn ai (Huệ Chi)
Độc Dịch Tam tuyệt vi biên đại Dịch kinh, Càn khôn toàn tại thử thân hình. Di thời tĩnh kiến dương tiêu tức, Trấn nhật tiềm quan vật phát sinh. Phủ ngưỡng nhược năng tâm bất tạc, Hành tàng hà xứ đạo vô thành. Phong lô nhất chú trầm hương niểu, Đề điểu sổ thanh xuân trú tình.
Dịch nghĩa
Đọc Kinh Dịch Kinh Dịch lớn lao đã ba lần đứt lề da, Tất cả trời đất đều ở trong thân hình này cả. Chốc lát lặng thấy sựsinh diệt của khí dương, Suốt ngày ngầm xem sự nẩy nở của muôn vật. Cúi nhìn trời đất, ngẩng nhìn trời mà lòng chẳng thẹn, Dù ra giúp nước hay ở ẩn, bề nào đạo chẳng thành. Một nén hương trầm trong lò, khói lên nghi ngút, Vài tiếng chim kêu giữa ngày xuân tạnh sáng.
Dịch thơ Lề đứt ba lần, đọc Kinh Dịch, Tóm thu trời đất một thân hình. Phút giây lặng thấy dương tàn hiện, Suốt buổi ngầm xem vật phát sinh. Cúi ngẩng ví như lòng chẳng thẹn, Hành tàng đâu sợ đạo không thành. Lò trầm toả ngát mùi hương nhẹ, Vài tiếng chim xuân hót nắng làng. (Đào Phương Bình, Nam Trân)
Bạch Đằng Giang Vãn vân kiếm kích bích toàn ngoan, Hải thẩn thôn triều quyển tuyết lan. Xuyết địa hoa điền xuân vũ tễ, Hám thiên tùng lại vãn sương hàn. Sơn hà kim cổ song khai nhãn, Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan. Giang thuỷ đình hàm tà nhật ảnh, Thác nghi chiến huyết vị tằng can.
Dịch nghĩa
Sông Bạch Đằng Núi biếc cao vút, tua tủa như gươm giáo kéo lấy tầng mây, Hải thẩn nuốt thuỷ triều cuộn làn sóng bạc. Hoa vàng điểm tô mặt đất lúc mưa xuân vừa tạnh, Tiếng sáo thông rung chuyển trời khi sương chiều lạnh lẽo. non sông này xưa nay đã hai lần mở mắt, Cuộc hơn thua giữa Hồ và Việt thoàng qua như một lúc dựa vào lan can. Nước sông chan chứa rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối, Còn ngỡ là máu chiến trường thuở trước chưa từng khô.
Dịch thơ Núi cao xanh níu mây thầm Triều tung sóng bạc, biển gầm gió khơi. Mưa xuân đất trải hoa cười Thông reo chiều lạnh khắp trời sương bay. Non sông hai lượt mở mày Thắng thua Hồ, Việt phút này đăm chiêu. Sông trôi cuộn đỏ ráng chiều Ngỡ còn máu nhuộm sóng triều Ðằng giang. (Nguyễn Tấn Hưng)
******** Chạm mây gươm giáo, xanh von vót, Sóng tuyết khi đầy lại lúc vơi. Mưa tạnh hoa phô vàng mặt đất, Sương lừa thông réo tiếng vang trời. Non sông kim cổ hai lần dậy, Hồ Việt hơn thua, một thoáng thôi. Chan chứa dòng sông ngầu bóng xế, Ngỡ là máu giặc hãy còn tươi. (Nam Trân, Đào Phương Bình)
Cam Lộ tự Tủng thuý toàn thương nhập vọng đa, Khê tây nhật ảnh chuyển thiềm tà. Cách lâm đề điểu vưu sầm tịch, Nhất kính cổ tùng sơ truỵ hoa.
Dịch nghĩa
Chùa Cam Lộ Mầu thuý vòi vọi, mầu xanh trập trùng tràn ngập trong tầm mắt, Bóng mặt trời phía Tây dòng suối chênh chếch ngả vào mái hiên. Chim kêu bên kia rừng càng thêm hiu quạnh, Một ngõ thông già lác đác rụng hoa.
Dịch thơ Trập trùng núi biếc non xanh, Bóng chiều bên suối chênh chênh rọi thềm. Bên rừng càng quạnh tiếng chim, Thông già một lối im lìm rụng hoa. (Nam Trân)
******** Chất ngất màu xanh mây núi xa, Mặt trời bên suối chếch hiên nhà. Cách rừng chim gọi thêm hiu quạnh, Một ngõ thông già rơi rắc hoa. (Băng Thanh)
Cúc Ngâm nhập hoàng hoa tửu khả khuynh, Cúc lý thu sắc vãn do hinh. Cổ kim nhân vật tri đa thiểu, Nhất trích Nam sơn vị liễu thanh.
Dịch nghĩa
Cúc Vịnh tới hoa cúc thì có thể nghiêng bầu chuốc chén, Giậu cúc vào lúc sắc thu đã muộn vẫn còn thơm. Nhân vật nổi tiếng xưa nay biết bao người, Chỉ một giọt thôi, vẫn chưa hiểu rõ được câu thơ có hai chữ "núi Nam".
Dịch thơ Ngâm thơ chuốc chén rưọu hoa vàng, Giậu cúc thu già vẫn ngát hương. Kim cổ biết bao nhân vật nhỉ, Nam sơn một giọt vẫn chưa tường. (Nam Trân, Đào Phương Bình)
Chẩn mạch Chẩn mạch hưu luân phiền muộn đa, Trâu công lương tễ yếu điều hoà. Nhược ngôn phiền muộn vô hưu yết, Chỉ khủng trùng chiêu phiền muộn gia
Dịch nghĩa
Xem mạch Xem mạch chớ nói phiền muộn nhiều, Tễ thuốc hay của Trâu công hãy điều hoà cho tốt. Nếu bảo nỗi phiền muộn không bao giờ dứt được, Thì chỉ sợ càng khiến cho sự phiền muộn tăng thêm mà thôi.
Dịch thơ Xem mạch đừng nên nói muộn phiền, Trâu công hãy liệu thuốc cho yên. Bảo rằng phiền muộn không sao dứt, Chỉ sợ càng tăng phiền muộn lên. (Cao Huy Giu)
Dạ vũ Thu khí hòa đăng thất thự minh, Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh. Tự tri tam thập niên tiền thác, Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh.
Dịch nghĩa
Mưa Đêm Hơi thu và ánh đèn mờ đi trước ánh ban mai, Giọt mưa trên tàu chuối xanh ngoài cửa sổ tiễn canh tàn. Tự biết sai lầm của ta trước đây ba mươi năm, Đành ôm sầu ngồi nghe mưa rơi.
Dịch thơ Hơi thu nhàn nhạt ánh mai, Bóng đêm, tàu chuối song ngoài tiễn đưa. Ðã lầm, ba chục năm xưa... Ngồi nghe ray rứt tiếng mưa canh tàn. (Nguyễn Tấn Hưng)
******** Giọt mưa tàu chuối tiễn đêm dài, Hiu hắt đèn thu trước ban mai. Ba chục năm rồi, lầm lỗi bấy! Đành ôm sầu hận, lắng mưa rơi. (Nam Trân, Phạm Tú Châu)
Dưỡng Chân Bình thôn tử Nhân Huệ vương trang Trang gia kỷ thốc ỷ thiều nghiêu, Nhất chẩm cao miên viễn thị triều. Hải giác dư đồ qui chính hoá, Thiên nhai nhân vật lạc ngư tiều. Khê thanh tịch tịch triều lai thiểu, Đường ảnh sơ sơ nguyệt thướng nhiêu. Long chuẩn hà tằng đồng điểu chuế, Biên chu hưu phiếm Ngũ hồ dao.
Dịch nghĩa
Dưỡng Chân Bình người làng trong trang của Nhân Huệ Vương Mấy dẫy nhà trong trang trại dựa vào núi cao chót vót, Một chiếc gối nằm khểnh ở xa triều đình và thành thị. Miền góc biển trên bản đồ đã theo giáo hoá của vua, Nhân vật ở chân trời vui với việc câu cá hái củi. Tiếng suối chảy lặng lẽ, vì nước triều ít dâng lên, Bóng cây đường thưa thớt nên ánh trăng tràn ngập. Mũi rồng đâu có giống mỏ chim, Xin chớ thả thuyền lênh đênh trên Ngũ hồ xa xôi.
Dịch thơ Nhà ai mấy khóm dựa non cao? Chiếc gối thênh thênh lánh thị triều. Góc biển dư đồ chung giáo hoá, Chân mây nhân vật mến ngư tiều. Êm êm tiếng suối, triều lên ít, Thưa thớt lùm mây, nguyệt sáng nhiều. Mỏ quạ, mũi rồng đâu phải một, Ngũ hồ chớ nghĩ thú tiêu dao. (Nam Trân, Đào Phương Bình)
Giới am ngâm Giới am bán gian khả dung tất, Ngột ngột đằng đằng tự độ nhật. Bách điểu bất lai xuân trú nhàn, Tiêu thiên tứ bích chân vô vật.
Vật nhược vô trần bích bất lập, Mê lư giới tử tòng hà nhập. Thuỳ nhân thứ phá giới am trung, Thất lộ tiện sử thiên ma khấp.
Cơ lai bão khiết phạn nhất bát, Thanh thuỷ mãn bình khả tiêu khát. Đằng sàng chẩm thượng trác ngọ miên, Chính thị cá trung chân khoái hoạt.
Kinh dã bất khan Phật bất nghĩ, Y nhãn hà vi kim tiết quí. Khách lai vấn cập bản lai nhân, Nhận khán y tiền hoàn bất thị.
Hưu hưu ngoại mịch khổ thi công, Phất phất tị khổng cổ kim đồng. Giới am tất cánh vô kỳ vật, Chỉ ma mi hoành tị trực ông.
Dịch nghĩa
Bài ngâm về am cỏ Nửa gian am cỏ chỉ đủ chứa đôi chân, Khi lặng lẽ, khi lâng lâng tự sống qua ngày. Trăm loài chim chẳng đến, ngày xuân thong thả, Bốn vách quạnh quẽ, thật không có vật gì.
Nếu vật không có bụi bặm thì bức vách này cũng không đứng vững, Và những vật rất nhỏ nhiều vô hạn kia từ đâu mà vào? Ai mà nhìn rõ được ở trong am cỏ này, Vì lạc đường mà con ma trời phải khóc.
Lúc đói, no nê một bát cơm, Nước trong đầy bình đủ giải cơn khát. Trên chiếc gối ở giường mây, đánh giấc ngủ trưa, Chính là sung sướng thật sự ở trong cái đó.
Kinh cũng chẳng xem, Phật cũng chẳng nghĩ tới, Chữa con mắt làm chi vì bột vàng rất đắt. Khách đến hỏi về con người trước đây, Nhận xét ra vẫn không giống như người thuở trước.
Thôi đi! Cứ cặm cụi tìm ở bên ngoài chỉ thêm vất vả, Lỗ mũi phập phồng thở thì xưa nay đều giống nhau. Trong am cỏ, rốt cuộc không có vật gì lạ, Chỉ có ông mày ngang mũi thẳng này thôi.
Dịch thơ Am cỏ nửa gian cũng đủ dùng, Qua ngày, ngất ngưởng lại thung dung. Chim không lai vãng, xuân nhàn nhã, Bốn vách tiêu điều, "vật" thảy không.
Không bụi, vách kia sao đứng nổi! Vô vàn bụi nhỏ từ đâu tới? Có ai nhòm thấu tận trong am, Kêu khóc, ma trời bị lạc lối?
Chén bát cơm no đỡ đói lòng, Nước trong đầy hũ, khát thì dùng. Giường mây chiếc gối, trưa ngon giấc, Chân chất niềm vui, ngụ ở trong.
Kinh cũng chẳng xem, Phật chẳng nhớ, Bột vàng hiếm hoi, mắt đừng chữa. Khách vào căn dặn "người thuở xưa". Ngờ ngợ: người xưa không giống nữa.
Tìm ở bên ngoài chỉ luống công, Phập phồng cánh mũi, xưa nay chung. Rốt cùng, am cỏ có gì lạ? Mũi thẳng mày ngang, chỉ một lòng. (Huệ Chi)
Hạnh ngộ Bình sinh tằng súc nhất trương cần, Mai một trần ai tuế nguyệt thâm. Hạnh ngộ Bá Nha cao diệu thủ, Cánh giao sơn thuỷ tự huy âm.
Dịch nghĩa
May gặp Đời ta từng có một cây đàn, Chôn vùi đã lâu ngày trong bụi trần. May gặp được tay cao diệu của Bá Nha, Lại khiến cho tiếng đàn nối được lời nước non.
Dịch thơ Đời ta đã sẵn cung đàn, Bụi trần vùi lấp thời gian lâu rồi. Bá Nha may gặp được người, Khiến cho đàn nối được lời nước non. (Phạm Tú Châu)
******** Đời ta từng sẵn một cung cầm, Cát bụi chôn vùi bao tháng năm. May gặp Bá Nha sành khúc điệu, Nối lời non nước, tạ tri âm. (Băng Thanh)
Kim Minh trì Ngoạn Nguyệt kiều biên đối tịch dương, Phất vân lưỡng ngạn liễu ti trường. Cao phi phí thuý tề tiên trượng, Độc lập thanh đình ổn phượng sàng. Nhập toạ thuỷ quang nhân đạm lãnh, Huân nhân hoa khí tiếu đàm hương. Ỷ lan nhãn để vô tiêm ế, Bích tẩm ngâu thiềm nhất dạ lương.
Dịch nghĩa
Ao Kim Minh Bên cầu Ngoạn Nguyệt đối bóng chiều tà, Hai bờ tơ liễu dài phơ phất từng mây. Chim trả bay sánh với nghi trượng thần tiên, Con chuồn đứng lẻ, vững vàng như chiếc gường phượng hoàng. Ánh nước soi chỗ ngồi, chăn chiếu thêm lạnh lẽo, Mùi hoa xông lên người, tiếng cười nói cũng thơm. Tựa lan can, mắt không bị chút gì che lấp, Trời xanh đẫm trăng bạc mát mẻ suốt đêm.
Dịch thơ Bên cầu Ngoạn Nguyệt ngắm chiều tây, Tơ liễu hai bờ phơ phất mây. Chim trả bay cao: nghi trượng đó, Con chuồn đứng lẻ: phượng sàng đây. Chiếu chăn nước rọi nghe hơi lạnh, Cười nói hoa xông thoảng nhị bay. Đứng tựa lan can tầm mắt rộng, Đêm thanh trăng bạc, mát dường này. (Nam Trân)
Nghệ An hành điện Sinh dân nhất thị ngã bào đồng, Tứ hải hà tâm sử khốn cùng. Tiêu tướng bất tri Cao Tổ ý, Vị Ương hư phí nhuận thanh hồng.
Dịch nghĩa
Hành cung ở Nghệ An Hết thảy sinh dân đều là người ruột thịt của ta, Nỡ lòng nào để cho bốn bể khốn cùng. Tướng quốc họ Tiêu không hiểu ý của Cao Tổ, Tô điểm đỏ xanh cung Vị Ương chỉ là tiêu phí vô ích.
Dịch thơ Vua tôi máu mủ giống nòi chung, Bốn bể sao đang để khốn cùng. Tiêu tướng vụng suy lòng Hán Tổ, Phi tiền tô điểm Vị Ương cung (Nam Trân)
Nguyệt Áng sơn hàn đường Túc đắc phi tâm vị xuất trần, Hí xuyên bách nạp bán tăng thân. Mãn sơn hoa sắc xuân tam nguyệt, Nhất chẩm tuyền thanh thu bát phân. Chỉ khủng thế gian vô thắng cảnh, Mạc ngôn thiên hạ khiếm nhàn nhân. Thử ông luyện đắc tâm như thiết, Bất phục lê hoa nhập mộng tần.
Dịch nghĩa
Nhà hàn đường ở núi Nguyệt Áng Sớm hiểu được thế nào là phi tâm nhưng chưa ra khỏi được trần tục, Hãy mặc chơi áo bách nạp mới tạm giống sư thôi. Sắc hoa đầy núi như trong ba tháng xuân, Tiếng suối nghe bên gối như tiết thu đã tám phần. Chỉ sợ trên đời không có thắng cảnh, Chớ nói trong thiên hạ thiếu người thanh nhàn. Ông già này luyện được lòng như sắt thép, Ngọn giáo hoa lê không còn đi vào giấc chiêm bao nữa.
Dịch thơ Lòng Phật chưa thành chửa xuất gia, Giống sư vì bởi khoác cà sa. Đầy non hoa nở xuân hằng trẻ, Hang gối khe reo thu sắp già. Cảnh đẹp thế gian e chẳng mấy, Người nhàn thiên hạ thiếu đâu mà. Ông này luyện được lòng như thép, Giấc mộng "hoa lê" chuyện đã qua. (Nam Trân, Đào Phương Bình)
Tạ bắc sứ Mã Hợp Mưu, Dương Đình Trấn kỳ 1 Mã đầu vạn lý thiệp khê san, Ngọc tiết dao dao chướng vụ hàn. Hốt đổ thập hàng khai phượng vĩ, Uyển như chỉ xích đối long nhan. Hán nguyên sơ kỷ trời phương thái, Thuấn lịch tân ban đức hựu khoan. Cánh đắc nhị công thành khoản khoản, Khước thiêm xuân sắc thướng mi gian.
Dịch nghĩa
Cảm tạ sứ phương bắc Mã Hợp Mưu, Dương Đình Trấn kỳ 1 Ruổi ngựa vượt qua muôn dặm núi khe, Cờ ngọc tiết rung rinh sương khói lạnh lùng. Mở cờ chiếu đuôi phượng ra chợt thấy mười hàng chữ, Hệt như được đứng trước mặt rồng chỉ cách gang tấc. Triều Hán lúc mở đầu là thời yên vui, Lịch vua Thuấn mới ban, đức độ khoan hậu. Lại được hai ông có lòng thành, Càng thêm vẻ xuân hiện trên nét mày.
Dịch thơ Khe núi muôn trùng ngựa ruổi rong, Tay vung cờ tiết, khói mù xông. Mười hàng bỗng chốc bày đuôi phượng, Gang tấc in như thấy mặt rồng. Đầu buổi Hán nguyên thời thịnh đạt, Mới ban Thuấn lịch đức khoan hồng. Hai ngài lại sẵn tình chân thật, Tươi tắn ngươi tôi, hớn hở lòng. (Nam Trân)
Tạ bắc sứ Mã Hợp Mưu, Dương Đình Trấn kỳ 2 - Hoạ tiền vận Cửu đỉnh điện an nhược Thái san, Thời dương thời vũ chướng yên hàn. Phổ thiên ngọc bạch qui Nghiêu Thuấn, Tị ốc huyền ca học Khổng Nhan. Đồng trụ bất tu lao Mã Viện, Bồ tiên nan phục tiễn Lưu Khoan. Thánh ân hạo đãng từ vân khoát, Hoá tác cam lâm mãn thế gian.
Dịch nghĩa
Cảm tạ sứ phương bắc Mã Hợp Mưu, Dương Đình Trấn kỳ 2 - Hoạ vần bài trên Chín cái vạc đặt vững như núi Thái sơn, Nắng mưa phải thì, lam chướng tan. Cả thiên hạ mang ngọc lụa về chầu Nghiêu, Thuấn, Khắp mọi nhà đàn hát, học theo Khổng Tử, Nhan Hồi. Không cần Mã Viện phải mất công dựng cột đồng, Khó mà còn khen ngợi Lưu Khoan có roi cói. Ơn thánh thượng mênh mông, mây lành rộng rãi, Hoá làm mưa ngọt đầy khắp thế gian.
Dịch thơ Chín vạc bền như núi Thái san, Nắng hoà mưa thuận khói mù tan. Dưới trời ngọc lụa chầu Nghiêu, Thuấn, Khắp cõi đàn ca học Khổng, Nhan. Lọ phải cột đồng thời Mã Viện, Khen gì roi cói kiểu Lưu Khoan. Mây lành phủ khắp nhuần ơn thánh, Hoá trận mưa rào tưới thế gian. (Đào Phương Bình, Nam Trân)
Tặng bắc sứ Tát Chỉ Ngoã, Văn Tử Phương Chí trị cải nguyên tân, Sơ ban đáo hải tần. Khuynh tâm hiệu quỳ hoắc, Phù trượng thính ty luân. Quang chiếu nham khê dạ, Ôn hồi thảo mộc xuân, Qui lai tái tiền tịch, Hạnh bất ngoại tư dân.
Dịch nghĩa
Tặng sứ phương bắc Tát Chỉ Ngoã, Văn Tử Phương Niên hiệu Chí Trị mới đổi, Vừa ban xuống đến miền ven biển. Dốc lòng hướng về mặt trời như cây quì, cây hoắc. Chống gậy ra nghe tiếng tơ tiếng lụa. Ánh sáng soi đêm tối ở núi khe, Hơi ấm đưa xuân về với cỏ cây. Khi trở về lại đến chỗ ngồi phía trước, Mong không bỏ dân xứ này ra ngoài thì may lắm.muộn tăng thêm mà thôi
Dịch thơ
Chí Trị niên hiệu mới, Ban ra miền biển đay. Nghiêng lòng như quì, hoắc, Chống gậy đón tờ mây. Đức sáng bừng khe núi, Xuân hoà mượt cỏ cây. Về triều tâu thánh thượng, Xin nhớ đến dân này. (Nam Trân)
Tặng Huyền Quang tôn giả Côn Sơn đại đạo sư, Vị ngã tác phúc điền. Vương thần tất quy kính, Phật đạo tục hoàn liên. Pháp kế Nhị tổ hậu, Cứu cánh Uy Âm tiền. Bất trước văn tự tướng, Diễn thuyết Như Lai thiền. Bản lai vô đại tiểu, Nhậm khí tuỳ phương viên. Cố ngã hoả trạch trung, Cái thị hữu túc duyên. Thân thường pháp nhũ vị, Thân thể giác khinh tiên (tiện). Tất thống hốt đả phá, Bát huyệt dữ thất xuyên. Tương vị hữu sở đắc, Sở đắc hà vật yên? Tương vị vô sở đắc, Tham học phi đồ nhiên. Sở đắc vô sở đắc, Dục ngữ thù nan nghiên (ngôn). Ngôn ngữ ký nan đắc, Thuỳ thụ phục thuỳ truyền. Cát đằng diệc bất thiếu, Như phọc cánh thiêm triền. Chỉ chỉ. Nhiên nhi bất đắc dĩ, Đoản kệ phục trùng tuyên
Dịch nghĩa
Tặng Huyền Quang tôn giả Bậc thầy lớn ở Côn Sơn, Vì ta làm ruộng phúc. Vương hầu bề tôi, thảy đều kính trọng, Đạo Phật, bề tôi, thảy đều kính trọng. Đạo Phật tiếp liền mãi, Sau khi nối pháp vị Tổ thứ hai, Cuối cùng sẽ đứng trước Phật Uy Âm. Không bám vào văn tự, Mà diễn giải về thiền của Như Lai. Xưa nay vốn không lớn không nhỏ, Vuông hay tròn tuỳ theo các đồ vật. Đoái xem trong nhà lửa của ta, Bởi vì có duyên xưa với Phật. Người thân từng nếm mùi sữa pháp, Nên thân thể cảm thấy nhẹ nhàng. Cái thùng sơn thốt nhiên bị đập vỡ, Tám lỗ với bảy chỗ thủng. Nếu bảo là có điều sở đắc, Sở đắc là cái gì vậy? Nếu bảo là không có sở đắc, Thì việc tham thiền chẳng phải là uổng công hay sao? Sở đắc và không sở đắc, Muốn nói nhưng thật là khó nói. Đã không nói nên lời, Thì ai học và ai truyền? Giây leo cũng chẳng ít, Như bị trói lại quấn thêm vào. Thôi! Thôi! Nhưng mà bất đắc dĩ, Lại phải tỏ bày ra bằng bài kệ ngắn.
Dịch thơ Côn Sơn bậc thầy lớn, Làm "ruộng phúc" cho ta. Vương hầu đều kính trọng, Đạo Phật nối dài ra. Tiếp pháp Đệ nhị tổ, Rồi sẽ gặp Di Đà. Chẳng nệ vào văn tự, Nghĩa thiền vẫn nói ra. Vẫn không có lớn, nhỏ, Tròn, vuông tùy gọi là… Nhà lửa ta, nhìn lại, Với Phật, duyên đậm đà. Nên từng nếm sữa pháp, Thênh nhẹ tấm thân ta. Tám lỗ với bảy khiếu, Thùng sơn đập vỡ ra. Có thể nói "sở đắc", "Sở đắc" là chi mà? Lại nói "không sở đắc", Tham thiền chớ bỏ qua. Sở đắc, không sở đắc, Muốn nói, khó nói ra. Đã không nói ra được, Ai học? Truyền cho ta? Dây nẻo cũng chẳng ít, Như trói chằng thịt da. Thôi Thôi! Nhưng vì bất đắc dĩ, Kệ ngắn lại bày ra. (Trần Lê Văn)
Tặng Trần Bang Cẩn hoạ tượng tính thi Hình dung cốt cách nại đông hàn, Tướng mạo đình đình diệc khả quan. Phong lưu nhất đoạn hồn miêu tận, Tâm lý nan miêu cảnh cảnh đan.
Dịch nghĩa
Thơ kèm bức vẽ chân dung tặng Trần Bang Cẩn Hình dung cốt cách chịu đựng được giá lạnh mùa đông, Tướng mạo đường đường cũng đáng xem. Mọi vẻ phong lưu đều vẽ được hết, Chỉ khó vẽ tấm lòng son chói sáng mà thôi.
Dịch thơ Thân hình rắn rỏi quen sương tuyết, Tướng mạo khôi ngô ngó cũng giòn. Mọi vẻ phong lưu đều tả hết, Mà chưa tả được tấm lòng son. (Nam Trân)
******** Hình dung cứng cáp giữa trời đông, Tướng mạo uy nghi cũng đáng trông. Mọi vẻ phong lưu tô được hết, Khôn tô choi chói tấm son lòng. (Cao Huy Giu, Huệ Chi)
Tống bắc sứ Tát Chỉ Ngoã, Triệu Tử Kỳ Nhật kỵ hành hành chướng vụ thâm, Hải biên quang chiếu sứ tinh lâm. Tứ phương chuyên đối nam nhi chí, Nhất thị đồng nhân thiên tử tâm. Việt quốc sơn hà cung kiệt cú, Chu gia vũ lộ bá luân âm. Minh triêu tương cách vân nam bắc, Kim nhật hưu từ tửu mãn châm.
Dịch nghĩa
Tiễn bắc sứ Tát Chỉ Ngoã, Triệu Tử Kỳ Ngựa trạm rong ruổi trong sương mù lam chướng dày đặc, Ánh sao sứ thần chiếu sáng đến tận miền ven biển. Chuyên ứng đối ở bốn phương là chí nam nhi, Coi tất cả như nhau là tấm lòng thiên tử. Non sông nước Việt cung cấp những câu thơ tuyệt hay, Mưa móc nhà Chu truyền bá tiếng nói đẹp như lụa. Sáng mai xa nhau, mây chia đôi ngả bắc nam, Hôm nay xin đừng từ chối chén rượu rót đầy.
Dịch thơ Ngựa trạm xông pha lớp khói mù, Sứ tinh chiếu rạng đến biên khu. Muôn phương như một, lòng thiên tử, Bốn cõi so lời, chí trượng phu. Hứng dậy câu thần: non nước Việt, Chiếu truyền việt nam mượt: móc như Chu. Sáng mai mây rẽ trời nam bắc, Đầy chén hôm nay, chớ khước từ. (Huệ Chi)
Tứ Phạm Tông Mại Đài Ô cửu hỹ cấm vô thanh, Chỉnh đốn triều cương sự phỉ khinh. Điện thượng ngang tàng ưng hổ khí, Nam nhi đáo thử thị công danh.
Dịch nghĩa
Ban cho Phạm Tông Mại Chốn Ô đài lâu rồi sao cứ lặng tiếng, Chỉnh đốn kỷ cương triều đình đâu phải việc dễ dàng. Trên điện chầu phải ngang tàng như chim cắt, như con hổ, Làm trai đến thế mới gọi là công danh.
Dịch thơ Bấy lâu im tiếng chốn Ô đài. Chỉnh đốn triều cương há chuyện chơi. Hùm, cắt ngang tàng nơi điện ngọc, Công danh đến thế xứng tài trai. (Đào Phương Bình)
Tứ thiếu bảo Trần Sùng Thao Hỉ hồi quân khí hiệp hồ điêu, Kinh khởi kình nghê hải đạo dao. Trung hiếu nhất tâm đan cảnh cảnh, Công danh lưỡng mấn bạch tiêu tiêu. Dĩ tằng đế tịch hư tiền đối, Hà dụng bồ luân đãi kiến chiêu. Mạc vị tử tôn mưu hậu sự, Khẳng tương mạt lộ đáp tam triều.
Dịch nghĩa
Ban cho thiếu bảo Trần Sùng Thao Mừng khí thế quân về vẫn mang theo vẻ hào hoa, Làm giật mình cá voi, cá mập trên đường biển xa xăm. Một tấm lòng trung hiếu đỏ chói lọi, Hai mái tóc công danh bạc phơ phơ. Đã từng đối mặt trên chiếc chiếu bỏ trống của nhà vua, Cần gì phải đợi vời về bằng xe quấn cỏ bồ. Chớ dặn con cháu lo việc chôn cất, Hãy đem sức còn lại đền đáp ba triều.
Dịch thơ Quân về hoà khí lại hào hoa, Cá mập kinh hồn nẻo biển xa. Trung hiếu một lòng còn chói lọi, Công danh hai mái đã sương pha. Chiếu vua dành chỗ khi trông mặt, Xe cói đâu cần lúc rước qua. Chớ dặn cháu con lo hậu sự, Ba triều còn sức báo vua ta. (Phạm Tú Châu)
Tương tịch ký Kim Sơn thiền sư kỳ 2 Súc dược dục trị bệnh, Vô bệnh an dụng dược? Kim hữu vô mễ phạn, Vô khẩu ngân giáo trước.
Dịch nghĩa
Sắp mất gửi Kim Sơn thiền sư kỳ 2 Tích thuốc muốn chữa bệnh, Không có bệnh dùng thuốc làm gì? Nay có thứ cơm "không gạo". Để cho người "không miệng" ăn.
Dịch thơ Tích thuốc nhằm chữa bệnh, Không bệnh, thuốc đâu cần? Như có cơm "không gạo", Cho người "không miệng" ăn. (Huệ Chi)
Thập nhất nguyệt quá bạc Vịnh Sơn hiểu trú Nguyệt lạc tiểu song thuyền, Nham hoa lãnh bất miên. Thự phân sơn thất ảnh, Dương phục thuỷ sinh yên. Vãng sự tu du tế, Thành nhân tam thập niên. Bất ngôn hoảng nhược tỉnh, Toạ đối nhất lô tiền.
Dịch nghĩa
Tháng mười một qua hồ Vịnh Sơn, rạng sáng đậu thuyền lại Trăng lặn ngoài cửa sổ nhỏ trên thuyền, Hoa núi lạnh chẳng ngủ được. Tảng sáng, bóng núi mờ hẳn đi, Khi mặt trời chưa ló mặt nước như bốc khói. Việc đã qua chỉ như trong chốc lát, Thành được người thì đã ba mươi năm. Bâng khuâng như tỉnh lại, chẳng nói năng gì, Ngồi lặng trước bếp lò.
Dịch thơ Trăng lặn bên song thuyền, Lanh hoa chẳng ngủ yên. Bình minh mờ núi biếc, Hơi khói nắng chưa lên. Việc cũ thoáng giây lát, Nên người ba chục niên. Nói gì khi tỉnh giấc, Ngồi ngắm bếp lò nhen. (Hoàng Lê)