Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao) Cẩm phàm khinh sấn lãng hoa khai, Bồng để yêm yêm thủ bất đài. Tam Giáp mộ vân vô nhạn đáo, Cửu Than minh nguyệt hữu long lai. Thê lương hành sắc thiêm cung mộng, Liêu loạn nhàn sầu đáo tửu bôi. Hán Vũ phiên chiêu cùng độc báng, Nam nhi đắc đắc nhược vi tai!
Dịch nghĩa
Trên đường chinh tây (đánh Ai Lao lần thứ hai) Buồm gấm (thuyền chiến) nhẹ nhàng đuổi theo nhau làm tung lên những hoa sóng, Dưới mui thuyền láp nháp ướt, đầu không muốn ngẩng lên. Tại Tam Giáp, trong mây chiều chim nhạn không thấy bay đến, Ở bãi Cửu Than vào đêm trăng sáng chắc rồng đã hiện ra. Vẻ thê lương tạo thêm màu sắc buồn bã cho những cơn mộng nơi hành cung, Lòng ngổn ngang trăm mối (vì việc nước) đã đến cùng chén rượu. Hán Vũ Đế đánh dẹp phiên bang nhiều lần mang tiếng hiếu chiến, Nam nhi tuy làm được như vậy cũng không phải là chuyện đáng khen đâu!
Dịch thơ Buồm gấm đuổi nhau hoa sóng bay Dưới mui người mệt chẳng ngẩng đầu Mây chiều nhạn vắng vùng Tam Giáp Trăng sáng rồng về bãi Cửu Than Thê lương thêm sắc đường cung mộng Tâm tư trăm mối chén rượu cay Hán Vũ tiếng đồn say chinh chiến Nam nhi được thế nào có hay! (Khuyết Danh)
******** Buồn gấm vèo bay, hoa sóng tung, Đầu nghe mệt mỏi dưới mui bồng. Mây chiều Tam giáp trông không nhạn, Trăng sáng Cửu than thấy có rồng, Quạnh quẽ dặm xa mơ điện cũ, Vấn vương sầu lắng thấm ly nồng. Hán hoàng mang tiếng say chinh chiến. Lật đật nam nhi có uổng công? (Trần Lê Văn)
Sở dĩ vua Trần Nhân Tông đem quân đi đánh Ai Lao vì trước đó Ai Lao đã nghe lời dụ dỗ hứa hẹn của nhà Nguyên đánh vào mặt phía tây của nước ta trong khi Thoát Hoan đánh vào từ mặt bắc. Lần này khi đi tây chinh Ai Lao lần thứ nhì năm 1294 có những tướng giỏi đi theo như Phạm Ngũ Lão, Trung Thành Vương... Tuy đánh Ai Lao là chuyện bắt buộc để giữ an ninh mặt phía tây nhưng vua Trần Nhân Tông đã cho biết nhà vua không thích chiến tranh, không muốn mang tiếng say chinh chiến như Hán Vũ Đế.
Thiên Trường Phủ Lục ám hồng hi bội tịch liêu Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu. Trai đường giảng hậu tăng quy viện, Giang quán canh sơ nguyệt thượng kiều. Tam thập tiên cung hoành dạ tháp, Bát thiên hương sát động xuân triều. Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc, Phảng phất canh tường nhập mộng nhiêu.
Dịch nghĩa
Phủ Thiên Trường Màu xanh sẫm, màu đỏ thưa, cảnh đêm vắng vẻ, Mây quang, mưa tạnh ngấn bùn đất cũng mất sạch. Trên trai đường, giảng kinh xong, các sư về viện, Quán bên sông, mới canh đầu trăng đã lên cầu. Ba mươi cung tiên đặt giường ngủ la liệt, Tám nghìn ngọn tháp thơm khua động nước triều mùa xuân. Phong cảnh chùa Phổ Minh vẫn như trước, Phảng phất trong chiêm bao hình dáng vua cha như trông tường thấy bóng, ăn canh thấy hình.
Dịch thơ Lục rậm, hồng thưa cảnh quạnh hiu, Mây quang, mưa tạnh đất tan rêu. Phòng trai giản đoạn, sư về viện, Cầu bến canh đầu, bóng nguyệt treo. Ba chục cung tiên, giường ngủ đặt, Tám nghìn bóng tháp, nước triều reo, Phổ Ninh phong cảnh, chùa như cũ, Trong giấc mơ màng Thuấn thấy Nghiêu. (Ngô Tất Tố)
******** Hồng thưa lục rậm vắng hiu, Mây quang, mưa tạnh bóng rêu lờ mờ. Giảng xong sư trở về chùa, Quán sông, canh một, trăng nhô lên cầu. Ba mươi cung tiên nhiệm màu, Tám nghìn bóng tháp xuân triều nước lên. Phổ Minh phong cảnh xưa in Trong mơ còn thấy bóng hình Tiên Vương (Đỗ Thanh Dương)
Thiên Trường vãn vọng Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên, Bán vô, bán hữu tịch dương biên. Mục đồng địch lý quy ngưu tận, Bạch lộ song song phi hạ điền.
Dịch nghĩa
Ngắm cảnh chiều ở phủ Thiên Trường Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như khói, Bóng chiều tà nửa không, nửa có. Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết, Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng.
Dịch thơ
Xóm thôn sau, trước khói mờ Bóng chiều bảng lảng đôi bờ có không. Liệng đồng cò đáp song song, Chiều quê sáo vẳng mục đồng lùa trâu. (Nguyễn Tấn Hưng)
******** Thôn trước thôn sau mờ khói sa Nửa không nửa có ánh chiều tà Mục đồng thổi sáo, trâu về cả Cánh cò từng đôi liệng đồng hoa. (Phụng Vũ Cửu Thiên)
******** Trước xóm sau thôn tựa khói lồng, Bóng chiều man mác có dường không. Mục đồng sáo vẳng trâu về hết, Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. (Ngô Tất Tố)
******** Khói chiều mờ thôn trước thôn sau, Nửa có nửa không nắng nhạt màu. Theo còi mục tử, trâu về xóm, Hai hàng xuống ruộng, cò trắng phau. (Phụng Hà)
Trúc nô minh Ngạo tuyết tâm hư, Lăng sương tiết kính. Giả nhĩ vi nô, Khủng phi thiên tính.
Dịch nghĩa
Bài minh đề trúc nô Trải tuyết lạnh mà tâm thông suốt, Dầu giải trong sương mà đốt cứng cỏi. Mượn ngươi làm tôi đòi, Sợ rằng trái với tính tự nhiên của nhà ngươi
Dịch thơ Tâm không rãi tuyết, Đốt cứng phơi sương. Mượn ngươi làm nô, Sợ trái tính thường. (Cao Xuân Huy)
Xuân Cảnh Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì, Hoạ đường thiềm ảnh mộ vân phi. Khách lai bất vấn nhân gian sự, Cộng ỷ lan can khán thuý vi.
Dịch nghĩa
Cảnh xuân Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi, Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay. Khách đến chơi không hỏi việc đời, Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời.
Dịch thơ Chim kêu hoa liễu nở đầy Họa đường thềm rợp bóng mây may Khách vào chẳng bàn chuyện thế sự Đứng tựa lan can ngắm cảnh trời (Khuyết Danh)
******** Chim nhẫn nha kêu, liễu trổ dày, Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay. Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế, Cùng tựa lan can nhìn núi mây. (Huệ Chi)
******** Lặng lẽ chim trời hót liễu xanh Chiều buông mây phủ vẽ thềm tranh Chẳng ai cùng khách bàn nhân thế Mãi ngắm màn đêm đứng tựa thành. (Hải Đà)
Xuân nhật yết Chiêu Lăng Tì hổ thiên môn túc, Y quan thất phẩm thông. Bạch đầu quân sĩ lại, Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
Dịch nghĩa
Ngày xuân thăm Chiêu Lăng Quân thị vệ như hùm gấu, trước nghìn cửa đứng nghiêm túc, Áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm. Người lính già đầu bạc còn đến ngày nay, Thường kể lại chuyện đời Nguyên Phong.
Dịch thơ Nghìn cửa, nghiêm tí hổ, Bảy phẩm, đủ cân đai. Lính bạc đầu còn đó, Chuyện Nguyên Phong, kể hoài (Trần Lê Văn)
******** Nghìn cửa quân nghiêm gác Đủ sắc quan chầu đông Người lính đầu đã bạc Kể mãi chuyện Nguyên Phong (Nguyễn Xuân Hưng)
Xuân vãn Niên thiếu hà tằng liễu sắc không, Nhất xuân tâm sự bách hoa trung. Như kim khám phá đông hoàng diện, Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng.
Dịch nghĩa
Chiều xuân Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ "sắc" với "không", Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa. Ngày nay đã khám phá được bộ mặt chúa xuân, Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa rụng.
Dịch thơ Thủa trẻ nào hay lẽ sắc không Mỗi xuân tâm rộn vạn hoa lòng Đông Hoàng bản mặt nay đà ngộ Chiếu cọ thiền xem rụng đóa hồng. (Đông A)
******** Thuở bé chưa từng rõ sắc không Xuân về hoa nở rộn trong lòng Chúa xuân nay bị ta khám phá Chiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng. (Lê Mạnh Thát)
******** Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không, Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng. Chúa xuân nay đã thành quen mặt, Nệm cỏ ngồi yên, ngó rụng hồng. (Ngô Tất Tố)
******** Thuở đó nào hay lẽ sắc không Xuân về xao động mộng hoa tươi. Nay ta biết lắm xuân chân tướng Ngồi thiền ngắm những cánh hồng rơi (Nguyễn Xuân Hưng)
Đệ nhất hội Mình ngồi thành thị; Nết dụng sơn lâm. Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính; Nửa ngày rồi tự tại thân tâm. Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý; Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm. Chơi nước biếc ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý; Biết đào hồng hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm. Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng; Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm. Lo hoán cốt ước phi thăng, đan thần mới phục; Nhắm trường sinh về thượng giới, thuốc thỏ còn đam. Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu; Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim.
********
Đệ nhị hội Biết vậy! Miễn được lòng rồi; Chẳng còn phép khác. Gìn tính sáng tính mới hầu an; Nén niềm vọng niềm dừng chẳng thác. Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương; Dừng hết tham sân mới lảu lòng màu viên giác. Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc. Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe; Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác. Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay; Vận giấy vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc. Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quý nửa thiên cung; Dầu năng miễn thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác.
********
Đệ tam hội Nếu mà cốc, Là ắt đã không, Pháp học lại thông. Gìn tính sáng, mựa lạc tà đạo; Sửa mình học, cho phải chính tông. Chỉn bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã tổ; Vong tài đối sắc ắt tìm cho phải thói Bàng công. Áng tư tài tính sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Diều Yên Tử; Răn thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi am Sạn non Đông. Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc; Sơn lâm chẳng cốc, hoạ kia thực cả đồ công. Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín; Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
********
Đệ tứ hội Tin xem, Miễn cốc một lòng; Thời rồi mọi hoặc. Chuyển tam độc mới chứng tam thân; Đoạn lục căn nên trừ lục tặc. Tìm đường hoán cốt, chỉn xá năng phục dược luyện đan; Hỏi pháp chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc. Biết chân như, tin bát nhã, chớ còn tìm Phật Tổ tây đông; Chứng thực tướng, nên vô vi, nào nhọc hỏi kinh Thiền nam bắc. Xem Tam Tạng giáo, ắt học đòi Thiền uyển thanh quy; Đốt ngũ phần hương, chẳng tổn đến chiên đàn chiêm bặc. Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca; Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc.
********
Đệ ngũ hội Vậy mới hay! Bụt ở cong nhà; Chẳng phải tìm xa. Nhân khuây bản nên ta tìm bụt; Đến cốc hay chỉn bụt là ta. Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng cong quê Hà Hữu; Kinh xem ba bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La. Trong đạo nghĩa, khoảng cơ quan, đà lọt lẫn trường kinh cửa tổ; Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa. Đức bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận; Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã tha. Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa, hoặc châm hoặc xể; Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa. Ngăn bát thức, nén bát phong, càng đè càng bội; Lẩy tam huyền, nong tam yếu, một cắt một ma. Cầm vốn thiếu dây, xá đàn dấu xoang Vô sinh khúc; Địch chăng có lỗ, cũng bấm chơi xướng Thái bình ca. Lẩy cội tìm cành, còn khá tiếc Câu Chi trưởng lão; Quay đầu chớp bóng, ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa. Lọt quyển kim cương, há mặt hầu thông nên nóng; Nuốt bồng lật cức, nào tay phải xước tượng da.
********
Đệ lục hội Thực thế! Hãy xá vô tâm; Tự nhiên hợp đạo. Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm; Đạt một lòng thì thông tổ giáo. Nhận văn giải nghĩa, lạc lài nên thiền khách bơ vơ; Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo. Han hữu lậu, han vô lậu, bảo cho hay: the lọt, duộc thưng; Hỏi Đại thừa, hỏi Tiểu thừa, thưa thẳng tắt: sồi tiền, tơ gạo. Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên; Chùi cho vặc vặc tính gương, nào có nhuốm căn trần huyên náo. Vàng chưa hết quặng, xá tua chín phen đúc chín phen rèn; Lộc chẳng còn tham, miễn được một thì chay một thì cháo. Sạch giới lòng, dồi giới tướng, nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm; Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu. Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân; Học đạo thờ thầy, dọt xương óc chưa thông của báo.
********
Đệ thất hội Vậy mới hay: Phép bụt trọng thay, Rèn mới cốc hay. Vô minh hết bồ đề thêm sáng; Phiền não rồi đạo đức càng say. Xem phỏng lòng kinh, lời bụt thốt dễ cho thấy dấu; Học đòi cơ tổ, sá thiền không khôn chút biết nay (nơi). Cùng căn bản, tã trần duyên, mựa để mấy hào ly đương mặt; Ngã thắng chàng, viên tri kiến, chớ cho còn hoạ trữ cong tay. Buông lửa giác ngộ, đốt hoại thảy rừng tà thời trước; Cầm kiếm trí tuệ, quét cho không tính thức thuở nay. Vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo; Mến đức Cồ, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay. Cảm đức từ bi, để nhiều kiếp nguyền cho thân cận; Đòi ơn cứu độ, nát muôn thân thà chịu đắng cay. Nghĩa hãy nhớ, đạo chẳng quên, hương hoa cúng xem còn nên thảo; Miệng rằng tin, lòng lại lỗi, vàng ngọc thờ cũng chửa hết ngay.
********
Đệ bát hội Chưng ấy: Chỉn xá tua rèn; Chớ nên tuyệt học. Lay ý thức chớ chấp chằng chằng; Nén niềm vọng mựa còn xóc xóc. Công danh mảng đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ; Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc. Dựng cầu đò, dồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu; Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc. Rèn lòng làm bụt, chỉn xá tu một sức dùi mài; Đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc. Xem kinh đọc lục, làm cho bằng thửa thấy thửa hay; Trọng bụt tu thân, dùng mựa lỗi một tơ một tóc. Cùng nơi ngôn cú, chỉn chăng hề một phút ngại lo; Rất thửa cơ quan, mựa còn để tám hơi dọt lọc.
********
Đệ cửu hội Vậy cho hay: Cơ quan tổ giáo, Tuy khác nhiều đàng (đường), Chẳng cách mấy gang. Chỉn xá nói từ sau Mã tổ; Ắt đã quen thuở trước Tiêu Hoàng. Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi; Khuếch nhiên bất thức, tai ngu mảng ắt còn vang. Sinh Thiên Trúc, chết Thiếu Lâm, chôn dối chân non Hùng Nhĩ; Thân bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang. Vương lão chém mèo, lại trẩy lòng ngừa thủ toạ; Thầy Hồ khua chó, trỏ xem trí nhẹ con giàng. Chợ Lư Lăng gạo mắt quá ư, chẳng cho mà cả; Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc, khôn đến thưa đang. Phá Táo cất cờ, đạp xuống dấu thiêng thần miếu; Câu Chi dời ngón, dùng đòi nếp cũ ông ang. Lưỡi gươm Lâm Tế, nạng Bí Ma, trước nạp tăng no dầu tự tại; Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt hượm xá nghênh ngang. Đưa phiến tử, cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn; Xô hòn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hoà thửa khoe khoang. Thuyền Tử rà chèo, dòng xanh chửa cho tịn tẩy; Đạo Ngô múa hốt, càn ma dường thấy quái quàng. Rồng Yển lão nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ; Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt dương. Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái Bạch; Bính đinh thuộc hoả, lại trở sau lỗi hướng Thiên Cang. Trà Triệu lão, bánh Thiều Dương, bầy thiền tử hãy còn đói khát; Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu Thất, chúng nạp tăng những để lưu hoang. Gieo bó củi, nẩy bông đèn, nhân mang mới nết; Lộc đào hoa, nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang.
Tượng chúng ấy, Cốc một chân không, Dụng đòi căn khí. Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông; Há cơ tổ nay còn thửa bí. Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến, bụt xá ngăn Bảo sở hoá thành; Đấng Thượng sĩ chứng thực mà nên, ai ghẽ có sơn lâm thành thị. Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao; Triền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí. Ngự cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang; Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quý. Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thực ấy phàm phu; Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí. Mày ngang mũi dọc, tướng tuy là xem ắt bằng nhau; Mặt thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vạn vàn thiên lý.
******** 偈云 居塵樂道且隨緣, 饑則飧兮困則眠。 家中有宝休尋覓, 對鏡無心莫問禪。
Kệ vân Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên, Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch, Đối kính vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch nghĩa
Sống giữa phàm trần, hãy tuỳ duyên mà vui với đạo Đói thì ăn, mệt thì ngủ Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác Đối diện với mọi cảnh giới mà vẫn vô tâm, thì cần chi hỏi thiền nữa.
Dịch thơ Sống đời vui đạo tuỳ duyên Đói thì ăn mệt ngủ liền sá chi Nhà ta châu báu thiếu gì Vô tâm với cảnh biết khi nào thiền (Nguyễn Duy)