Lược sử: Cách đây hơn 500 năm, vào đời nhà Lê có một nhà thơ mà thi phẩm của ông được người đời sau ca ngợi không thua kém gì thơ Đường Tống,… Đó là nhà thơ Thái Thuận người làng Liễu lâm - Bắc ninh Thái Thuận tự Nghĩa Hoà hiệu Lục Khê biệt hiệu Lữ Đường sinh năm Canh thân (1440) đậu tiến sĩ năm 1475 (Hồng Đức thứ 6).
Phiên âm: Tam đông quá liễu nhất xuân quy Tác noãn đông phong phóng phóng xuy Băng tuyết đống ngân phô thuỷ diện Càn khôn sinh ý thượng lâm chi Liẽu hoàn cựu lục oanh du tĩnh Đào thí tân hồn điệp vị tri Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng Thảo tâm du tử bất thăng bi
Dịch nghĩa:
Đầu xuân Ba tháng đông qua, một mùa xuân lại về Sinh khí ấm, gió xuân phất phới Đấu đọng của băng tuyết phô ra mặt nước Ý hiếu sinh của càn khôn trải trên nhánh cây rừng Liễu trả sắc xưa, oanh vẫn nín Đào khoe màu mới Bướm chưa hay Cuối ngày ngoái cổ nhìn về quê hương Lòng thảo tâm du tử thương nhớ vô cùng
Dịch thơ
Đông qua, xuân lại trở về đây, Trãi ấm từng cơn gió nhẹ bay. Ngấn tuyết băng lưa dờn dợn sóng, Đức kiền khôn rãi đượm đà cây. Xanh xưa nhuộm liễu oanh còn nín, Hồng mới tô đào bướm chửa hay. Ngoảnh lại quê hương trời xẩm tối, Ngậm ngùi tấc cỏ dễ mà khuây! (Quách Tấn)
Mao xá nhân yên lý Cô châu tiểu bạc thì Thôn đồng tam tứ bối Duyên thủy mịch bành kỳ.
Dịch nghĩa:
Tức cảnh Hoàng Giang Mấy túp lều tranh ẩn trong làn khói giữ làng Trong khi chiếc thuyền lẻ loi dừng lại một lúc Ba bốn tốp trẻ nhỏ trong xóm Ven theo dòng sông tìm cua cáy.
Dịch thơ Thuyền con lạnh lẽo giữa dòng Lều tranh mấy túp ẩn trong khói nhòa Trẻ con mấy xóm gần xa Ven theo dòng nước la cà bắt cua. (Tiểu Cuồng Sinh)
******** Lều tranh trong khói thoáng xa mờ Thuyền lẻ dừng chèo luống ngẩn ngơ Trong xóm trẻ con ba bốn đứa Bắt cua tìm cáy dọc bên bờ (Nguyệt Sinh)
Bồn Man đạo trung chinh tây thời hành Lộ quá thiên sơn ngang phục đê Tuyệt văn phệ khuyển dữ minh kê Thanh thanh độc hữu tùng nham thọ Đáo xứ thu thanh lạc cổ bề
Dịch nghĩa
Trên đường Bồn Man lúc chinh tây Đường qua nghìn núi lên rồi lại xuống Tuyệt không nghe tiếng chó sủa cùng gà gáy Chỉ có sắc xanh của cây tùng trải trùm nơi sườn núi Cùng nơi tiếng thu rụng theo tiếng trống hành quân
Dịch thơ Vượt nghìn non đường lên lại xuống Tiếng gà không tiếng khuyển cũng không Xanh xanh núi rợp bóng tùng Luồn theo tiếng trống lạnh lùng gió thu (Quách Tấn)
Bồn Man đạo trung chinh tây thời hành Lộ quá thiên sơn ngang phục đê Tuyệt văn phệ khuyển dữ minh kê Thanh thanh độc hữu tùng nham thọ Đáo xứ thu thanh lạc cổ bề
Dịch nghĩa
Trên đường Bồn Man lúc chinh tây Đường qua nghìn núi lên rồi lại xuống Tuyệt không nghe tiếng chó sủa cùng gà gáy Chỉ có sắc xanh của cây tùng trải trùm nơi sườn núi Cùng nơi tiếng thu rụng theo tiếng trống hành quân
Dịch thơ Vượt nghìn non đường lên lại xuống Tiếng gà không tiếng khuyển cũng không Xanh xanh núi rợp bóng tùng Luồn theo tiếng trống lạnh lùng gió thu (Quách Tấn)
Chiêu Quân xuất tái Nam lai trình tận Bắc lai trình, Nam Bắc na kham trướng biệt tình. Vạn lý Hán thiên hoa hữu lệ, Bách niên Hồ địa mã vô thanh. Nhất đoàn la ỷ thương xuân lão, Kỷ khúc tỳ bà tố nguyệt minh. Phân phó quân vương an chẩm ngoạ, Sầu thành nhất phiến thị trường thành.
Dịch nghĩa
Chiêu Quân qua ải Con đường từ Nam lại đã dứt, con đường ra Bắc thẳng dong Nam Bắc không kham nổi nỗi buồn ly biệt Trời Hán muôn dặm hoa có nước mắt Đất Hồ trăm năm tiếng ngựa không hí Một đoàn gấm vóc xót thương cho cảnh già cỗi của tuổi xuân Mấy khúc đàn tỳ bà kêu than cùng ánh trăng sáng Nhắn nhủ nhà vua ngủ yên trên gối Một mảnh thành sầu đó là bức thành dài ngăn giặc
Dịch thơ
Bắc trình dõi bước dứt Nam trình Nam Bắc đường chia mối thảm đoanh Trời Hán tuôn dòng hoa khóc tủi Đất Hồ im tiếng ngựa reo binh Áo cài xuân muộn bơ phờ dáng Đàn gảy trăng khuya não nuột tình Nhắn nhủ cung rồng yên giấc ngự Sầu thành một bức vững trường thành (Quách Tấn)
Chinh phụ ngâm Đình thảo thành sào liễu hựu ty, Chinh phu hà nhật thị quy kỳ ? Bán liêm tàn nguyệt thương tâm dạ, Nhất chẩm đề quyên lạc lệ thì. Tái bắc vân trường cô nhạn ảnh, Giang nam xuân tận lão nga my. Sạ lai kỷ độ tương tư mộng, Tằng đáo quân biên tri bất tri ?
Dịch nghĩa
Đám cỏ ngoài sân đã thành khóm, chồi liễu lại một lần buông tơ Không biết ngày nào người chinh phu trở về Soi qua nửa bức rèm, thấy mảnh trăng tàn mà thương tâm Vọng lại bên gối nằm, nghe tiếng quyên kêu mà rơi lệ Ải Bắc mây phủ đầy, con chim nhạn lẻ loi chiếc bóng Sông Nam xuân đã qua, nét mày ngài một ngày một già đi Mấy lâu nay thường có những giấc mộng tương tư Thường mơ đến bên chàng, chàng có hay chăng ?
Dịch thơ
Cỏ lại vun sân liễu lại chồi Người ra chiến địa thuở nào lui Nửa rèm trăng xế đau quằn quại Đầy gối quyên kêu lệ sụt sùi Xuân lụn trời nam mày thuý nhạt Mây vần ải bắc bóng nhàn côi Tương tư, biết chẳng hồn theo mộng ? Tìm đến bên nhau mấy độ rồi. (Quách Tấn)
******** Cỏ lại kết vun, liễu lại tơ, Chinh phu bao thuở mới quay về. Nửa rèm trăng khuyết lòng sầu tủi, Một gối quyên kêu lệ tái tê. Ải bắc mây giăng mờ bóng nhạn, Dòng nam xuân hết lạnh bờ my. Tương tư mấy độ hồn theo mộng, Tìm đến bên chàng có những khi. (Điệp Luyến Hoa)
******** Cỏ rạp sân thềm liễu rủ tơ, Chàng đi bao thủa lại quê nhà. Nửa đêm trăng xế lòng ngao ngán, Chiếc gối quyên gào lệ nhỏ sa. Ải bắc mây dăng che bóng nhạn, Vườn xuân nắng tạc ủ mày nga. Nhớ nhau mấy lúc chiêm bao thấy, Ngàn dặm lang quân biết chăng là! (Nguyễn Đình Chiêm - con trai Nguyễn Đình Chiểu)
******** Cỏ thành khóm liễu buông tơ Chinh phu ơi biết bao giờ về đây Rèm soi úa mảnh trăng gầy Tàn đêm quyên hót gọi bầy lệ sa Mây giăng nhạn lẻ trời xa Sông Nam xuân hết phôi pha nét mày Giấc tương tư mộng bấy nay Đến bên chàng đó có hay không chàng (Ha Vu Lam Y)
Giang thôn tức sự Noãn triều bán lạc hiểu phong vi, Cá cá sa âu hướng bối phi. Giang thượng thiên quy hà xứ sở, Hàn yên lãnh vũ nhất thôi y.
Dịch nghĩa
Tức cảnh xóm bên sông Nước triều ấm rút phân nửa gió sớm thổi nhè nhẹ Đoàn sa âu con nào con nấy hướng vào lưng nhau mà bay Trên sông trời về xứ nào Khói lạnh mưa lạnh một chiếc áo tơi
Dịch thơ Gió thổi trào lui nửa cát bày Đoàn âu chiếc chiếc nối lưng bay Trên sông trời hướng về đâu tá Một mảnh tơi che lạnh tháng ngày (Quách Tấn)
Hạng Vũ biệt Ngu Cơ Thảm đạm thu phong cổ giốc bi, Khả liên kim dạ biệt nga mi. Bạt sơn lực tận thiên vong ngã, Bách chiến quan hà phó dữ thuỳ.
Dịch nghĩa
Hạng Vũ từ biệt Ngu Cơ Gió thu ảm đạm, tiếng trống tiếng tù và buồn bã Thương thay đêm nay phải từ biệt người đẹp mày ngài Sức bạt núi nay đã tận, ý trời đã chẳng ngả về ta Trăm trận vượt quan ải nay giao phó cùng ai
Dịch thơ
Còi trống trời thu gió thảm bay Đêm nay từ biệt khách mày ngài Nhổ non sức cạn, trời làm hại Bách chiến quan hà phó mặc ai! (Đào Phương Bình)
Long Nhãn quả Bách quả hữu long nhãn, Như nhân kiến Tử Đô*. Bất ưng duyên hậu thục, Hoán tác lệ chi nô*.
Dịch nghĩa
Quả Long Nhãn Trong trăm thứ quả có quả long nhãn Cũng giống như trong loài người thấy chàng Tử Đô Chớ nên vì nhãn chín muộn Mà gọi nó là "lệ chi nô"
Dịch thơ Loài quả có long nhãn Như người có Tử Đô Đừng vì nhãn chín muộn Mà gọi "lệ chi nô" (Trần Thị Băng Thanh)
*Tử Đô: Theo Kinh Thi, Tử Đô là một anh chàng đẹp trai. Sau dùng "Tử Đô" để chỉ những người đẹp trai nói chung.
*lệ chi nô: Lệ chi là cây vải. Theo Nông chính toàn thư thì: Cây long nhãn giống như cây vải nhưng cành lá nhỏ hơn, vỏ ngoài có sắc xanh vàng, hình quả như viên đạn tròn. Thịt trắng mà có nước ngọt như mật. Mùa vải qua thì nhãn mới chín, cho nên gọi là "lệ chi nô". Như vậy gọi nhãn là "lệ chi nô" thì chỉ hàm nghĩa là loại quả chín muộn sau vải. Nhưng từ "nô" nguyên nghĩa là đầy tớ, là người hầu hạ, thường theo sau ông chủ, xã hội cũ cho là loại người hèn kém, đáng khinh. Cho nên gọi là "lệ chi nô" thì cũng gợi một ý khinh thị nào đó đối với quả nhãn. Vì thế ở đây nhà thơ mới có tứ thơ: "chớ nên vì nhãn chín muộn (so với vải) mà gọi nó là lệ chi nô". Bài thơ này tác giả làm là để ký thác tâm sự, vì đường công danh của ông có phần muộn mằn so với lứa tuổi và bạn bè.
Ngu Cơ biệt Hạng Vũ Quan hà tứ tái nguyệt như sương, Chiến mã vô thanh dạ vị ương. Đãn hận quân vương thời bất lợi, Hồng nhan bạc phận thiếp hà thương
Dịch nghĩa
Ngu Cơ từ biệt Hạng Vũ Quan hà bốn cửa ải ánh trăng như sương Ngựa chiến lặng lẽ, đêm chửa tàn Chỉ ân hận cho đấng quân vương thời không thuận lợi Phận hồng nhan mỏng manh như thiếp có gì đáng thương!
Dịch thơ Bốn phía quan hà nguyệt lắng sương Im hơi ngựa chiến trĩu đêm trường Quân vương vận rủi mà riêng hận Phận bạc hồng nhan chửa đáng thương! (Đào Phương Bình)
Sơn thôn tức sự Thảm kính tàn hồng vũ hậu đa, Cuồng phong do nhiễu vị quy nha. Bạch đầu dã lão vô xuân tứ, Nhật mộ môn tiền tảo lạc hoa.
Dịch nghĩa
Chuyện xóm núi Sau mưa lớn, thương thay đường nhỏ cánh hồng rụng rơi Cuồng phong vẫn còn, quạ chưa về tổ Ông lão quê chẳng biết xuân Chiều về trước cửa quét hoa rụng
Dịch thơ Qua mưa, thắm rụng hồng rơi, Quạ khôn về tổ, gió trời chưa ngưng. Lão già quê chẳng biết xuân, Sớm hôm quét lá hoa rừng trước sân. (Nguyễn Tấn Hưng)
Tư thân Nhị Hà đông vọng vị hồi trình, Lữ xá cô vân nhãn để sinh. Khách lý dục quy quy vị đắc, Nhất xuân cô phụ đỗ quyên thanh.
Dịch nghĩa
Nhớ người thân Trông phía đông Nhị Hà trên quãng đường chưa về Đám mây cô đơn nơi quán trọ sinh ở đáy mắt Trong đất khách muốn về, về cũng chưa được Một mùa xuân đành phụ tình với tiếng chim đỗ quyên
Dịch thơ Trông về đông phía dòng sông Nhị Quán trọ, mây từ đáy mắt lên Đất khách toan về, về chửa được Chiều xuân đành phụ tiếng chim quyên (Bùi Duy Tân, Đào Phương Bình)
Thu dạ Bích thiên như thuỷ lộ hoa linh, Đồng diệp vô thanh lạc mãn đình. Vọng đoạn thước kiều nhân độc toạ, Nhất ban thi tứ đáo phồn tinh
Dịch nghĩa
Đêm thu Trời xanh như nước hoa sương héo Lá ngô đồng, không gió, rụng đầy sân Cầu Ô Thước trông đứt mắt, người ngồi một mình Một ban thi tứ đến nơi sao tụ hợp đông đúc (tức sông Ngân Hà)
Dịch thơ
Trời xanh như nước rụng hoa sương Không gió sân ngô lá ngập vàng Vút mắt cầu Ô người tựa bóng Tứ thơ dồn dập bến Ngân giang (Quách Tấn)
******** Trời xanh như nước móc sương gieo Im gió sân ngô lá rụng nhiều Mỏi mắt cầu Ô người một bóng Hồn thơ cao vút đến chòm sao (Bùi Duy Tân, Đào Phương Bình)
Trường An xuân mộ Tự tín tài phi thập bát tiên, Trường An không thử tuế hoa thiên! Tiêu điều quan xá như tăng xá, Lão đão kim niên kịch vãng niên. Thượng uyển điên cuồng linh hý điệp, Cố hương quy khứ phụ đề quyên. Thê noa do hiểm thời năng phạn, Vị biện nang trung mãi tửu tiền.
Dịch nghĩa
Cuối xuân ở Trường An Tự biết tài chẳng được như 18 vị tiên; Đất Tràng An năm tháng cứ trôi qua uổng phí như vậy. Cảnh tiêu điều nơi công quán mà tựa nơi tăng xá; Nỗi lận đận năm nay còn tệ hơn năm trước. Điên cuồng vườn Thượng uyển thương con bướm đùa bỡn; Trở lại cố hương phụ tiếng cuốc kêu than. Vợ con vẫn còn hiềm làm sao phải có cái ăn; Nên chưa có sẵn tiền mua rượu trong túi được.
Dịch thơ Tự biết tài không sánh hội tiên, Trường An lần lữa hết hoa niên! Năm này lận đận in năm ngoái, Cửa hoạn đìu hiu quá cửa chiền. Say múa vườn hoa thương kiếp bướm, Gọi về quê cũ phụ lòng quyên. Vợ con hiềm phải lo cơm áo, Mua rượu tiền lưng chửa sẵn tiền. (Quách Tấn)
Vọng Phu Sơn Hóa thạch sơn đầu kỷ tịch huân Thương tâm vô lộ cánh phùng quân Thiên nhai mục đoạn niên niên nguyệt Giang thượng hồn tiêu mộ mộ vân Thanh lệ nhất ban hoa lộ trích Ly tình vạn chủng thảo yên phân Tương phi nhược thức tương tư khổ Bất tích ai huyền ký dữ văn.
Dịch nghĩa
Núi Vọng Phu Hóa thành đá trên đầu non trải đã bao ngày; Lòng đau đớn chẳng có đường nào để có thể gặp chàng. Bên trời đăm đắm trông theo ánh trăng năm này qua năm khác; Trên sông hồn tan nát cùng những đám mây chiều chiều. Nước mắt thầm rơi như sương trên những đóa hoa; Muôn nỗi tình ly biệt dằng dặc như mây như cỏ. Tương Phi nếu biết nỗi khổ tương tư này; Hẳn không tiếc dây (khúc) đàn buồn bã mà gửi lại cho nghe.
Dịch thơ Hóa đá non cao chất tháng ngày Gặp chàng biết có nẻo nào đây Chân trời mắt mỏi năm năm nguyệt Mặt sóng hồn tan lớp lớp mây Sương đọng lòng hoa rơi giọt thảm Khói vương sắc cỏ rối niềm tây Tương phi ví biết tương tư khổ Dây gởi sầu xin gởi gấm đây. (Quách Tấn)
Xuân dạ Trùng trùng liêm ảnh nguyệt tà di, Thích tú vô nhân ngữ dạ trì. Chẩm thượng mộng hồn thuỳ hoán tỉnh, Đỗ quyên thanh tại bách ba chi.
Dịch nghĩa
Đêm xuân Bóng trăng tà rời bóng rèm trông từng lớp từng lớp Không có ai là người thêu gấm cùng trò chuyện lúc đêm muộn màng Mộng hồn trên gối ai gọi tỉnh dậy? Tiếng đỗ quyên nơi nhánh trăm hoa
Dịch thơ Bóng rèm lớp lớp rụng trăng tà Đêm muộn nào hay bạn ỷ la Trên gối mộng hồn say chợt tỉnh Tiếng quyên dài dặc nhánh trăm hoa (Quách Tấn)
Xuân mộ Bách niên thân thế thán phù bình, Xuân khứ thuỳ năng bất lão thành. Lưu thuỷ kiều biên dương liễu ảnh, Tịch dương giang thượng giá cô thanh. Nguyệt ư yên thọ tuy vô phận, Phong dữ thiên hương thượng hữu tình. Cửu thập thiều quang dung dị quá, Thảo tâm du tử khổ nan bình.
Dịch nghĩa
Chiều xuân Thân thế trăm năm than cho kiếp bèo nổi Xuân đi rồi có ai không thành người già Bên cầu nước chảy bóng dương liễu thướt tha Trên sông chiều tà tiếng đa đa não nuột Trăng lồng trong khói cây tuy không phận vụ Gió quyến hương trời vẫn có tình với nhau Chín chục thiều quang qua đi một cách dễ dàng Khiến lòng người đi xa mong đền ơn cha mẹ đau khổ khó lấp bằng cho được
Dịch thơ Tấm thân bèo nổi ngậm ngùi thương, Xuân lụn đầu ai khỏi điểm sương. Bóng liễu thướt tha cầu thệ thuỷ, Tiếng đa não nuột bến tà dương. Phận dù không phận trăng lồng khói, Tình vẫn ưa tình gió quyện hương. Chín chục thiều quang thoi thấm thoát, Bồn chồn tấc cỏ bước du phương. (Quách Tấn)