Phạm Ngộ 范悟 cũng thường gọi là Phạm Tông Ngộ 范宗悟 hiệu Liêu Khê, sinh và mất năm nào chưa rõ. Người hương Kính Chủ huyện Giáp Sơn, phủ Tân Hưng, nay thuộc tỉnh Hải Hưng, là anh em ruột của Phạm Mại. Ông nguyên họ Chúc tên Kiên sau vì vua Trần Nhân Tông cho rằng họ Chúc không phải là họ lớn nên đổi làm họ Phạm. Còn Kiên thì lại trùng với tên của Phán thủ Huệ Nghĩa nên đổi làm Ngộ.
Pham Ngộ tính tình ngay thẳng, làm quan nổi tiếng thanh liêm. Bắt đầu vào triều với chức Thị nội học sinh, dưới triều Trần Minh Tông (1314-1329) ông giữ chức Tri thẩm hình viện sự, sau được thăng Tả ty lang trung rồi lại thăng Tri chính sự, đồng tri thượng thư tả ty sự.
Về thơ văn, sáng tác của Phạm Ngộ hiện còn rất ít, tuy vậy cũng có thể nhận ra ở ông một ngòi bút tả cảnh và trữ tình tinh tế, một thi vị man mác của người hiểu rõ ý nghĩa cuộc đời. Thơ ông rất cô đọng, nhiều ý ít lời. Tác phẩm: hiện còn 8 bài thơ, chép trong các bộ hợp tuyển.
Đại Than dạ bạc Thập tải giang hồ nhất diệp chu, Tây phong xuy tận hắc điêu cừu. Sương hàn dã tự chung sơ dạ, Nguyệt mãn giang thôn nhạn chính thu. Kim cổ vô cùng ngô đạo tại, Càn khôn bất ngại thử thân phù. Minh thời khổ luyến quy tâm vị, Tàm quý vân sơn nhiễu mộng du.
Dịch nghĩa
Đêm đỗ thuyền ở bến Đại Than Mười năm giang hồ với một lá thuyền con, Gió tây thổi phai hết màu đen trên chiếc áo cầu lông điêu. Ngôi chùa quê trong sương lạnh, tiếng chuông điểm khi đêm vừa đổ xuống, Xóm ven sông trăng toả, chim nhạn bay giữa tiết trời thu. Kim cổ vô cùng, đạo ta vẫn còn mãi, Trời đất không ngăn trở, thân này cứ lênh đênh. Còn lưu luyến với đời thịnh trị, chưa được thoả lòng quy ẩn, Thẹn thùng, mây núi cứ quẩn quanh trong giấc chiêm bao.
Dịch thơ
Mười năm phiêu lãng sông hồ Gió thu hiu hắt bạc phô áo cừu Chùa quê, chuông điểm sương chiều Sông thu xóm nguyệt hắt hiu nhạn bầy Cổ kim, đạo hãy còn đây Trời cao đất rộng thân này lênh đênh, Ẩn cư, luyến cuộc thanh bình Thẹn thùng mây núi vây quanh mộng hồn. (Nguyễn Tấn Hưng)
******** Mười năm phiêu dạt, lá thuyền con, Dãi gió dầm mưa, áo cũ mòn. Chùa tối sương sa, chuông đổ vội, Sông thu trăng toả, nhạn bay dồn. Cổ kim thăm thẳm thời chưa hết, Nông nỗi lênh đênh, phận hãy còn. Luyến cuộc thăng bình chưa nỡ ẩn, Trong mơ thẹn thấy núi mây vờn. (Tuấn Nghi)
******** Thuyền một chiếc, lãng du đất khách, Gió nhiều phen, áo rách sờn vai. Chuông khuya sương quyện chùa ai, Trăng thu bóng nhạn lạc loài cõi đêm Lưu kim cổ, Đạo nghiêm còn giữ So đất trời , Thân cứ ung dung. Việc đời muốn bỏ cho xong, Núi mây vào mộng cho lòng chẳng yên !! (Ngo Ho Anh Khoi)
******** Mười năm trôi nổi chiếc thuyền con Cánh gió nhẹ tung manh áo mòn Văng vẳng chuông xa nơi chùa cũ Mỏi mòn nhạn lạc chốn trăng thôn Đạo hoài lưu dấu cùng kim cổ Người muốn ngao du mặc càn khôn. Chưa thỏa tang bồng sao yên được? Chuyện đời len lỏi giấc mơ con. (Hoa Vo Tuyet)
******** Thuyền ai rong ruổi đó đây, Áo ai sờn rách, gió tây lạnh lùng. Chùa ai sương lạnh điểm chuông, Nhà ai trăng nhạn đượm buồn trời thu. Đạo ai kim cổ hoài lưu, Thân ai cứ mặc lãng du đất trời. Lòng ai lưu luyến với đời, Mộng ai mây núi chơi vơi thẹn thùng... (Ngo Ho Anh Khoi)
Chí Linh đạo trung Dã thú bạt hoàn thiệp, Sơn hành vũ dục tình. U hoa thuỳ mạo trọng, Không thuý trước y khinh. Toạ thạch phùng tăng thoại, Khan vân liễu thế tình. Nhân tham u hứng cực, Quy lộ nguyệt đông minh.
Dịch nghĩa
Trên đường đi Chí Linh Qua đồng nội hết trèo lại lội, Đi đường núi, vừa sắp tạnh cơn mưa. Những bông hoa thanh u nặng nghiêng vành mũ, Màu thuý ở không trung vương vào áo nhẹ nhàng. Ngồi trên tảng đá, gặp nhà sư trò chuyện, Nhìn áng mây mà hiểu rõ tình đời. Vì quá ham mê với cảm hứng thanh u, Trên đường về, trăng đã ló sáng đằng đông.
Dịch thơ Qua đồng, lội lại trèo, Mưa tạnh, đường quanh queo. Vành mũ nghiêng hoa nặng, Áo cừu màu thuý treo. Cùng sư ngồi đá núi, Cuộc thế ngắm mây bèo. Mải luyến thú thanh nhã, Đường về trăng đã treo. (Tuấn Nghi)
Chu trung dạ cảnh Thê lương dạ nguyệt yên ngưng tuyết, Kỷ điểm ai hồng khiếu thiên mạt. Trường giang như luyện thuỷ ánh không, Nhất thanh ngư địch thiên sơn nguyệt.
Dịch nghĩa
Cảnh đêm khi trên thuyền Trăng đêm lạnh lẽo, khói đọng [như] tuyết, Mấy chấm chim hồng buồn bã kêu ở cuối trời. Sông dài như dải lụa, nước ánh lên tầng không, Một tiếng sáo làng chài, trăng giãi trên nghìn ngọn núi.
Dịch thơ Khói dường tuyết đọng, lạnh trăng đêm, Góc biển hồng kêu, ai oán thêm. Dải lụa sông dài, soi ánh nước, Trăng treo ngàn núi, sáo chài êm. (Hoàng Lê)
Du Phù Thạch nham nãi tiên tổ du hành chi địa chu trung tác Tích niên tằng tác Phù Thạch du, Đồng nhan a kế bồi thân ngu. Đề thi khiếu vịnh thạch bích hạ, Thời nhân thiết tỉ Mi tam Tô. Kim niên trùng tác Phù Thạch du, Giang sơn như cố, nhân bạch đầu. Truy hoan tuế nguyệt dĩ bất tái, Yên ba thiên lý sinh nhàn sầu. Thắng du giải cấu na khả tất, Trần thổ trùng lai hựu hà nhật. Du du thân thế ỷ lan can, Thiên ngoại khách phàm quy điểu tật.
Dịch nghĩa
Cảm tác lúc đi thuyền dạo chơi ở động Phù Thạch là nơi tổ tiên tu hành Năm xưa từng dạo chơi ở Phù Thạch, Vẻ trẻ thơ, tóc trái đào, theo hầu thân phụ vui vầy. Đề thơ ngâm vịnh ở dưới vách đá, Người đương thời trộm ví [nhà ta] với ba người họ Tô đất Mi Sơn. Năm nay trở lại dạo chơi ở Phù Thạch, Non sông vẫn như cũ, nhưng người đã bạc đầu. Mải vui, năm tháng trôi qua không trở lại, Khói sóng dặm nghìn gợi buồn nhớ vẩn vơ. Chuyện gặp gỡ giữa người và cảnh là tình cờ, nào có gì làm chắc, Trong cõi đời cát bụi, biết có ngày nào còn trở lại đây chăng. Thân thế mịt mù, tựa vào mái thuyền, Buồm khách ngoài trời xa, chim về tổ vội vàng.
Dịch thơ
Phù Thạch năm xưa từng dạo qua, Đầu xanh chầu chực bên mình cha. Mấy câu đề vịnh dưới sườn đá, Người lấy Tam Tô trộm ví ta. Phù Thạch năm nay lại dạo qua, Non nước in xưa, người đã già. Ngày tháng thoi đưa nhà xuân vắng, Sóng nổi cơn sầu nghìn dặm xa. Gặp gỡ dễ đâu người với cảnh, Cái duyên trùng phùng thường trở ngạnh. Cuộc đời dằng dặc lúc nương cầu, Buồm khách ngoài trời chim thẳng cánh. (Đinh Văn Chấp)
Thu Dạ tức sự Phá ốc khan tinh dạ vị ương, Tiêu tiêu tứ bích nhiễu hàn tương. Thanh đăng đối ảnh song bồng mấn, Hoàng quyển luân tâm nhất chú hương. Phong tống thu thanh tuỳ thụ viễn, Nguyệt phân dạ khí nhập song lương. Ky hoài lãnh khước hồn vô sự, Thời thính đình ngô lạc hiểu sương.
Dịch nghĩa
Tức cảnh đêm thu Trong] gian nhà cũ nát nhìn sao, đêm vẫn chưa sáng, Dế lạnh nỉ non quanh bốn bức vách quạnh hiu. Đối diện với bóng bên ngọn đèn xanh, hai mái tóc rối bời, Tâm sự cùng cuốn sách vàng, trước nén hương. Gió đưa tiếng thu theo cây cối xa dần, Trăng phả hơi đêm vào cửa sổ lành lạnh. Đất khách quê người, nỗi lòng lạnh lẽo không còn thiết tới việc gì, Chốc chốc lại nghe giọt sương mai từ cây ngô đồng trước sân rơi xuống.
Dịch thơ Nhà dột trông sao, đêm vấn vương, Nỉ non dế lạnh khóc quanh tường. Ðèn xanh đối bóng hai màu tóc, Sách cũ nao lòng một nén hương. Gió quyện tiếng thu luồn khóm lá. Trăng chia hơi mát tỏa bên giường, Tha hương lạnh cả lòng chăn gối, Sân vắng cành ngô lác đác sương. (Khuyết Danh)
Yết Vạn Tải từ đường Trùng môn bất yểm kê thanh ngọ, Lạc hoa mãn địa hồng vô chủ. Hoang lương cố lý mộc thiên chương, Tịch mịch không sơn yên nhất lũ. Phù vân phú quý sự dĩ phi, Hãn trúc công danh chung bất hủ. Khách lai cảm cựu bất thăng tình, Yết bãi tùng từ lệ như vũ.
Dịch nghĩa
Yết nhà thờ Vạn Tải Mấy lớp cửa không khép, tiếng gà gáy giữa trưa, Hoa rụng đầy đất, màu hồng không có chủ. Làng xưa hoang lạnh, cây cối hàng nghìn màu sắc, Núi trơ tịch mịch, một làn khói nhỏ [bốc lên]. Cảnh giàu sang như mây nổi, đã không đáng kể, Công danh lưu sử sách, rốt cuộc còn mãi. Khách đến đây, trước cảnh cũ, lòng xiết bao xúc động, Yết xong ngôi đền hoang rậm, nước mắt như mưa.
Dịch thơ Gà trưa xao xác, ngõ không cài, Hoa rụng đỏ vườn, chủ ấy ai. Nghìn cụm cây làng chen chúc mọc, Một làn khói núi thảnh thơi bay. Giàu sang mây nổi, đà lầm lỡ, Sử sách lưu danh, chẳng nát phai. Cảnh đấy người đây bao cảm cựu, Thăm xong đền cổ, lệ rơi dài. (Tuấn Nghi)