Giới thiệu: Đào Tiềm 陶潛 (365-427) người đất Tầm Dương, đời Tấn, tự là Uyên Minh 淵明. Có sách nói ông vào đời Tấn tên là Uyên Minh 淵明, tự là Nguyên Lượng 元亮, đến đời Tống (Nam Bắc triều) đổi tên thành Tiềm 潛. Đời sau, do phạm huý với vua Cao Tổ đời Đường là Lý Uyên 李淵 nên người ta còn gọi ông là Đào Thâm Minh 陶深明 hay Đào Tuyền Minh 陶泉明. Ông tự hiệu Ngũ liễu tiên sinh 五柳先生, thuỵ hiệu Tĩnh tiết tiên sinh 靖節先生. Khi làm quan lệnh tại Bành Trạch, phải đứng đón chào viên đốc bưu do quận thú phái đến, Đào Tiềm than rằng "Ta tại sao lại vì năm đấu gạo mà chịu gãy lưng?", bèn trả ấn, từ quan.
Sách "Tấn thư" chép: Đào Tiềm là người đất Sài Tang đời Tấn (nay thuộc Cửu Giang, Giang Châu), tính tình cao thượng, không cần danh lợi, ham học, giỏi thơ văn. ông có soạn truyện "Ngũ Liễu tiên sinh" để tự ví mình. Nhà nghèo có cha mẹ già, ông phải ra làm chức Tế tửu - chức quan nhỏ trong huyện, nhưng không chịu gò bó nên từ quan về nhà. Về sau, ông lại ra làm huyện lệnh Bàng Trạch, được hơn 80 ngày, nhân cuối năm phái viên đốc hưu (chức quan giúp quan quận thú coi việc kiểm tra đôn đốc các huyện trong quận) đến huyện, nha lại khuyên ông ăn mặc chỉnh tề để đốc hưu. Ông ngậm ngùi than rằng: "Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu quyển quyển sự hương lý tiểu nhân đa" (Ta sao lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru!). Rồi ngay hôm ấy ông trả ấn bỏ quan mà về. Sau khi từ quan về, ông hay ẩn nằm ngũ dưới cửa sổ đằng bắc, tự coi mình là người đời Hy Hoàng. Ông vui cảnh an bần lạc đạo, lấy tiếng đàn, câu thơ, chén rượu làm vui. Tính ông chuộng cúc, cứ đến ngày trùng cửu (mùng 9/9), ông lại cùng bạn bè bày tiệc rượu bên khóm trúc để thưởng hoa.
Kết lư tại nhân cảnh, Nhi vô xa mã huyên. Vấn quân hà năng nhĩ, Tâm viễn địa tự thiên. Thái cúc đông ly hạ, Du nhiên kiến Nam sơn. Sơn khí nhật tịch giai, Phi điểu tương dữ hoàn. Thử hoàn hữu chân ý, Dục biện dĩ vong ngôn.
Uống rượu kỳ 5
Cất nhà trong cảnh nhân gian Ngựa xe chẳng vướng bụi trần vào đây Hỏi ông sao được như vầy ? Tâm hồn cao viễn, đất này hẹp thôi Rào đông hái cúc chiều nay Xa trông thấy núi Nam ngay trước nhà Đẹp thay sắc núi chiều tà Đàn chim về tổ la đà cánh bay Bao chân ý - cảnh sắc này Muốn tìm ngôn ngữ giãi bày, lại quên.
Hoà trạch chu tam xuân, Thanh lương tố thu tiết. Lộ ngưng vô du phân, Thiên cao túc cảnh triệt. Lăng sầm tủng dật phong, Dao chiêm giai kỳ tuyệt. Phương cúc khai lâm diệu, Thanh tùng quán nham liệt. Hoài thử trinh tú tư, Trác vi sương hạ kiệt. Hàm trường niệm u nhân, Thiên tải phủ nhĩ quyết. Kiểm tố bất hoạch triển, Yêm yêm cánh lương nguyệt.
Hoạ quan chủ bạ họ Quách kỳ 2
Hoà thuận suốt ba xuân, Thu trong trẻo muôn phần. Sương đọng hơi không tản, Trời cao cảnh sáng trong. Gò cao ngọn chót vót, Xa ngắm đẹp vô vàn. Rừng sâu hoa cúc sáng, Vách núi trội tùng xanh. Mang trong mình trinh tú, Anh kiệt ngạo trong sương. Hớp rượu nhớ ẩn sĩ, Đây bí quyết ngàn năm. Thư tín không nhận, mở, An dật với trăng lành.
Chủng đậu Nam sơn hạ, Thảo thịnh đậu miêu hy. Thần hưng lý hoang uế, Đới nguyệt hà sừ quy. Đạo hiệp thảo mộc trường, Tịch lộ triêm ngã y. Y triêm bất túc tích, Đãn sử nguyện vô vi.
Về quê ở kỳ 3
Dưới núi Nam trồng đậu Đậu ít, cỏ nhiều ghê Sáng, ruộng hoang dọn sạch Đội trăng vác cuốc về Đường nhỏ cây râm rạp Sương ướt áo dầm dề Sá chi sương ướt áo Chỉ mong chẳng muộn về
Nhân sinh vô căn đế Phiêu như mạch thượng trần Phân tán trục phong chuyển Thử dĩ phi thường thân Lạc địa vi huynh đệ Hà tất cốt nhục thân? Đắc hoan đương tác nhạc Đấu tửu tụ tỉ lân Thịnh niên bất trùng lai Nhất nhật nan tái thần Cập thời đương miễn lệ Tuế nguyệt bất đãi nhân
Thơ tạp kỳ 1
Bụi người chẳng biết từ đâu Phiêu linh ấy cũng một màu thế nhân Tơi bời theo gió xoay vần Cái thân bụi bặm là thân vô thường. Kết anh em há đường cốt nhục? Ai cũng là mảy tục trần gian Khi vui khúc nhạc cung đàn Xóm giềng tụ tập uống tràn canh thâu. Mùa này được mùa sau lại mất Một ngày khó hai lúc bình minh, Vụ mùa mình gắng sức mình Thoi đưa ngày tháng chùng chình chi đâu