Huệ Sinh thiền sư 惠生禪師 (?-1063) tên thật là Lâm Khu 林摳, người làng Đông Phù Liệt, huyện Long Đàm, xuất thân gia đình quan lại, bắt đầu đi tu từ năm 19 tuổi, đạt được danh hiệu Tăng thống, đứng đầu thế hệ thứ mười ba, dòng thiền Nam phương. Ông từng trụ trì ở nhiều nơi. Khi đang sống trên ngọn núi Bồ Đề, thuộc dãy Trà Sơn; ông được vua Lý Thái Tông cho mời về triều để hỏi han về Phật học. Vua còn phong ông làm Đô tăng lục. Đời Lý Thánh Tông (1054-1072) ông được phong đến chức Tả nhai đô tăng thống, ngang với tước hầu.
Ông mất ngày 9 tháng Chín năm Quý Mão, niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh thứ năm (tức ngày 3 tháng Mười năm 1063).
Tác phẩm: - Văn bia ở các chùa Tiên Du, Thiên Phúc, Thiên Thanh, Khai Quốc, Vũ Ninh, Diệu Nghiêm và Báo Đức. - Pháp sự trai nghi. - Chư đạo tràng khánh tán văn.
Những tác phẩm trên đây hiện chưa tìm thấy. Chỉ còn lại hai bài thơ (4 khúc).
答李太宗心願之問其一 法本如無法, 非有亦非空。 若人知此法, 眾生與佛同。 Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn kỳ 1 Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi không. Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sinh dữ Phật đồng.
Dịch nghĩa Trả lời Lý Thái Tông hỏi về tâm nguyện kỳ 1 Thế giới hiện tượng vốn như không có, Chẳng phải là có, cũng chẳng phải là không. Nếu người ta hiểu được cái nguyên lý ấy, Thì chúng sinh cũng đồng nhất với Phật.
Dịch thơ
Pháp tướng vốn như không có pháp, Mơ màng như có lại như không. Pháp này ví có người am hiểu, Thế tục, Như lai một chữ đồng. (Nam Trân)
******* Tưởng rằng Pháp có mà không, Hỏi rằng cái Có, cái Không khác gì? Lí đơn giản, lẽ huyền vi, Một khi giác ngộ, khác gì Phật đâu ... (Ngô Hồ Anh Khôi)
答李太宗心願之問其二 寂寂棱伽月, 空空渡海舟。 知空空覺有, 三昧任通週。 Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn kỳ 2 Tịch tịch Lăng Già nguyệt, Không không độ hải chu Tri không, không giác hữu, Tam muội nhậm thông chu.
Dịch nghĩa
Trả lời Lý Thái Tông hỏi về tâm nguyện kỳ 2 Lặng lẽ như vầng trăng trên núi Lăng Già, Hư không như con thuyền vượt biển. Biết đúng cái không thì cái không hoá ra cái có, Và sẽ mặc ý mà đi suốt và đi khắp tam muội.
Dịch thơ Lặng như vầng nguyệt núi Lăng Già, Hư tựa con thuyền vượt sóng ra. Biết cả lẽ "không" và lẽ "có", Lại dùng "tam muội" hiểu sâu xa. (Nam Trân)
******** Thân là trăng lặng trên cao, Tâm là thuyền nhỏ ra vào hư không. Biết "Không", lẽ "Có" tất thông, Ngao du chín cõi cũng lòng bàn tay. (Ngô Hồ Anh Khôi)
水火其一 水火日相參, 由來未可談。 報君無處所, 三三又三三。 Thuỷ hoả kỳ 1 Thuỷ hoả nhật tương tham, Do lai vị khả đàm. Báo quân vô xứ sở, Tam tam hưu tam tam
Dịch nghĩa
Nước và lửa kỳ 1 Nước, lửa ngày ngày thâm nhập lẫn nhau, Nguồn gốc của chúng không thể bàn đến được. Báo cho anh biết chúng không có xứ sở, (Mà chỉ là) cái "nhất như" và cái "nhất như" mà thôi. Dịch thơ
Thuỷ hoả ngày ngày tham hợp lại Do lai, khó nói cội nguồn đâu. Chớ lo mải miết tìm nơi chốn, Một mối chân như, rất nhiệm màu. (Băng Thanh)
******** Ngày ngày thuỷ hoả tương giao, Ngọn nguồn ai biết thế nào mà tra ? Mỏi mòn muốn giải cho ra, Mà không biết thảy đều là hư không ... (Ngô Hồ Anh Khôi)
Thuỷ hoả kỳ 2 Tự cổ lai tham học, Nhân nhân chỉ vị Nam. Nhược nhân vấn tân sự, Tân sự nguyệt sơ tam.
Dịch nghĩa
Nước và lửa kỳ 2 Từ xưa đến nay (người) đến học đạo, Ai nấy đều chỉ vì một phương hướng. Ví bằng có người hỏi cái mới, Thì cái mới (giống như) trăng mồng ba.
Dịch thơ Từ cổ tới nay người học đạo, Chỉ vì một hướng, khác gì nhau. Ví bằng vệc mới, tìm ta hỏi, Việc mới, mồng ba, trăng buổi đầu. (Băng Thanh)
******** Học đạo chỉ cầu một đường, Ngàn năm cũng chỉ một phương mà tìm. Hỏi tìm pháp mới khai tâm, Lời rằng có mới, già tầm như trăng !!! (Ngô Hồ Anh Khôi)